Những Sự Hiểu Lầm Về Ngondro

Hiểu Lầm Cơ Bản Về Cách Mình Hiện Hữu

Đương nhiên là có nhiều lãnh vực bị hiểu lầm trong đạo Phật; nhưng không chỉ giới hạn trong sự nhận thức và hiểu biết của mình về đạo Phật. Sự thiếu hiểu biết này là một chủ đề chung mà mình sẽ thấy trong giáo lý nhà Phật. Chúng ta hiểu lầm về thực tại; hiểu lầm về cách mình tồn tại, cách mọi người tồn tại, v.v... Vì vậy mà mình phóng chiếu đủ điều vô nghĩa, không phù hợp với thực tại. Mình không chỉ phóng chiếu những điều vô nghĩa đó, mà còn vô tình tin vào điều đó. Chúng ta tin rằng nó không tương ứng với thực tại. Việc xóa tan những sự hiểu lầm về đạo Phật cũng có thể giúp ta bắt đầu nhận ra cách mình phóng chiếu về những điều vô nghĩa, không chỉ về giáo pháp, mà nói chung là về bản thân, về người khác, và những tình huống mà mình phải đối diện trong cuộc sống.

Hiểu Lầm Về Nghiệp

Một trong những điều mà mình hiểu lầm là nghiệp. Nhiều người trong chúng ta có xu hướng nghĩ rằng nghiệp phải liên quan đến định mệnh: nếu như điều gì kinh khủng xảy ra với mình, thì ta sẽ nói, “Đó là nghiệp của mình.”. Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng mình đã hư hỏng trong những kiếp trước, hoặc trước đây trong kiếp này, và bây giờ thì mình xứng đáng để gặp điều gì kinh khủng, vì đã là người xấu và tội lỗi. Đây là một sự phóng chiếu về những khuôn khổ khái niệm nào đó, từ tư tưởng của phương Tây, không liên quan gì đến giáo pháp thật sự trong nhà Phật. Nhưng vì đã vô tình chấp nhận những khuôn khổ này, nên ta cảm thấy rất khủng khiếp. Niềm tin vào những khuôn khổ này chỉ có xu hướng khuếch đại niềm tin của mình vào một bản ngã vững chắc xấu xa một cách cố hữu. Điều này chắc chắn không phải là giáo lý nhà Phật.

Nếu như hỏi chữ “nghiệp” có nghĩa là gì, nếu như nhìn vào tiếng Tây Tạng, thì đó là từ ngữ thông tục cho “hành động”. Thông thường, khi nghe thuyết giảng về nghiệp, thì người ta sẽ dịch điều này là “hành động”. Nếu như nghĩ về điều đó, thì nó không có ý nghĩa gì cả. Đó là vì nếu như một trong những căn nguyên của những khó khăn trong đời sống là hành động của mình, thì suy ra nếu như chỉ cần ngưng thực hiện bất cứ điều gì, là mình sẽ được tự do, nhưng điều này vô lý. Chúng ta chỉ cần ngồi đó, không làm gì cả, và mọi vấn đề của mình sẽ biến mất. Rõ ràng là nghiệp tự nó không có nghĩa là hành động, mặc dù từ ngữ tiếng Tây Tạng thông tục dành cho chữ này có nghĩa là hành động.

Thật ra thì điều mà nghiệp đang nói đến là tính cưỡng bách – tính cưỡng bách đằng sau những hành động của mình, thúc đẩy mình hành động, nói năng hoặc suy nghĩ theo cách nào đó. Chúng ta sẽ hành động theo những cách khác nhau, và việc này tích tập những tiềm năng, xu hướng và tập khí: theo thuật ngữ vật lý Tây phương, là những đường giây thần kinh. Hậu quả của các hành nghiệp của mình sẽ trổ quả theo nhiều khía cạnh khác nhau. Chúng ta sẽ đi vào vấn đề này sâu hơn sau này trong buổi giảng. Tuy nhiên, một trong những điều mà những hành động này trổ quả là cảm giác muốn làm điều gì đó. Chúng ta cảm thấy, “Tôi thích làm điều gì đó; tôi muốn nói điều gì đó." Khi điều đó xảy ra thì nghiệp bắt đầu tham dự. Nghiệp là sự bắt buộc khiến cho ta phải làm những gì mình cảm thấy thích làm. Đó là điều mà mình phải vượt qua.

Cần phải tìm ra khoảng trống giữa thời điểm mà mình cảm thấy muốn nói điều gì khó chịu với ai đó, và khi mình thật sự nói điều đó. Nếu như có thể tìm ra khoảng trống đó, thì nó sẽ cho mình cơ hội sử dụng trí tuệ để quyết định xem việc thực hiện những gì mình muốn làm hay nói sẽ có lợi hay có hại. Việc có khả năng phân biệt hành động hay lời nói của mình sẽ hữu ích hay có hại là điều phân biệt giữa mình với thú vật, để mình không chỉ hành động theo bản năng, hoặc thói quen.

Nghiệp đang nói về điều đó. Nó có thể là xung động bắt buộc mình phải lặp lại loại hành vi tương tự mà mình đã có trước đây, hay việc bắt buộc phải rơi vào một tình huống. Ví dụ như mình cảm thấy muốn đến trung tâm thương mãi, nên bắt buộc phải đến đó, và điều đó có thể dẫn đến việc bị xe đụng. Tính cưỡng ép này có thể đưa ta vào một tình huống để sự việc xảy ra với mình. Những kết quả khó khăn của tính cưỡng ép này khiến cho mình làm mọi việc thì thường là không rõ ràng, nhưng nghiệp là như vậy.

Hiển nhiên là điều mà mình muốn làm là vượt qua sự khống chế của nghiệp. Chúng ta muốn đoạn trừ điều đó, và cũng từ bỏ điều khiến cho mình tạo ra những thói quen này. Chúng ta có thể có những tập khí tiêu cực, hay thậm chí là những tập khí tích cực khá loạn thần, ví dụ như làm một người cầu toàn, và muốn dọn dẹp hoài, hoặc liên tục sửa sai người khác, hay hành động như một tên phát xít về ngữ pháp. Loại hội chứng này, chủ nghĩa hoàn hảo - khi ta có vọng tưởng rằng mình có thể là người hoàn hảo bằng cách nào đó - có thể dẫn đến rất nhiều khó khăn. Ngôi nhà không bao giờ sạch đủ; dù mình có lau chùi nó bao nhiêu lần đi nữa, thì nó luôn luôn phải được lau chùi thêm nữa, nên đầu óc mình không bao giờ thấy thoải mái.

Hiểu Lầm Về Mật Tông: Đường Tu “Dễ” Đưa Đến Giác Ngộ

Chủ đề chính mà mình sẽ tập trung vào là Mật tông. Mật tông là một trong những phương pháp mà mình sẽ sử dụng để khắc phục sự kiểm soát của tính cưỡng bách từ nghiệp. Một trong những quan niệm sai lầm là nghĩ rằng Mật tông, hay Đại thủ ấn (mahamudra), hoặc Đại viên mãn (dzogchen) là những đường tu dễ đưa đến giác ngộ. Không có ai nói là chúng dễ dàng; và mặc dù chúng có thể rất hữu hiệu, nhưng là những đường tu rất khó khăn.

Không có cách nào để bỏ qua nhân quả, mặc dù Mật tông được gọi là quả thừa (resultant vehicle). Đó là vì hiện giờ, mình đang tu tập theo cách tương tự như những điều mình sẽ đạt được như một vị Phật. Chúng ta tưởng tượng hay giả vờ là mình hiện đang mang sắc tướng của một vị Hộ Phật (deity) hay Bổn tôn (yidam), và hành vi của mình giống như hành vi của một vị Phật, đối với việc có thể giúp đỡ tất cả chúng sinh. Chúng ta tưởng tượng lời nói của mình là mật chú, môi trường của mình là một mạn đà la thanh tịnh, và cách mình tận hưởng mọi thứ thì tràn đầy cực lạc, không có liên hệ gì với vô minh. Dù hiện nay thì ta đang tu tập theo cách tương tự với kết quả mà mình muốn đạt được; nhưng trên thực tế thì trạng thái kết quả này sẽ không xảy ra, trừ khi mình tích tập đủ nguyên nhân.

Không có cách nào để bỏ qua nhân quả, bằng bất cứ phương tiện nào; giác ngộ sẽ không xảy ra ngay lập tức như vậy. Tuy nhiên, chúng ta nghe rất nhiều điều được đề cập về Mật tông, đặc biệt là Tối Thượng Du Già Mật Điển, rằng nó sẽ cho giúp cho mình đạt được giác ngộ trong một đời. Thậm chí trong vòng một kiếp thì người ta có thể đạt được nó trong ba năm và ba tuần trăng. Một tuần trăng là khoảng thời gian từ lúc trăng non đến trăng tròn, hoặc trăng tròn đến trăng non, nên ba tuần trăng như vậy tổng cộng là một tháng rưỡi. Chúng ta nghĩ rằng mình muốn một món hời như vậy, và sẽ giác ngộ với giá rẻ. Vì vậy nên mình mới tu tập theo đường tu Mật tông.

Đôi khi, Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đây là “lời tuyên truyền của đạo Phật”. Nó tạo ra sự khích lệ là mình có thể đạt được giác ngộ trong một đời, nhưng điều đó rất hiếm. Nó chỉ có thể xảy ra trên nền tảng của một lượng công đức vô cùng to lớn và vân vân, đã được tích tập trong những kiếp trước.

Đâu là lời giải thích cho việc tính con số ba năm và ba tuần trăng? Nó xuất phát từ Mật điển Kalachakra (Mật điển Thời Luân). “Kalachakra” có nghĩa là chu kỳ thời gian. Trong hệ thống này thì mình phân tích về hơi thở một cách rất cẩn thận. Hơi thở di chuyển mười hai lần trong ngày, giữa việc chủ yếu đi qua một lỗ mũi, rồi đi qua lỗ mũi kia. Khi nó thực hiện quá trình chuyển đổi giữa lỗ mũi này và lỗ mũi kia, thì có 67.5 hơi thở đi qua cả hai lỗ mũi một cách đồng đều. Khi nó làm như vậy thì năng lượng vi tế đằng sau hơi thở sẽ đi vào kinh mạch trung ương.

Chúng ta muốn đưa tất cả năng lượng vi tế của hơi thở - hoặc những gì được gọi trong văn học Ấn Độ là prana, hay trong văn học Trung Quốc là qi - vào kinh mạch trung ương, và hòa tan chúng ở đó. Đó là vì tính cưỡng bách của nghiệp bị năng lượng “loạn thần” này thúc đẩy, nếu như sử dụng thuật ngữ phương Tây, nên tuần hoàn một cách ngẫu nhiên qua cơ thể của mình. Đây là điều khiến cho mình cảm thấy lo âu, căng thẳng và khẩn trương. Trong hệ thống Kalachakra thì mình gọi nó là “gió nghiệp”. Chúng ta muốn đưa tất cả năng lượng vi tế này vào kinh mạch trung ương.

Bây giờ thì mình phải rất giỏi về số học. Có 67.5 hơi thở đi qua hai lỗ mũi một cách đồng đều trong mười hai ca trong một ngày. Rồi lấy số hơi thở sẽ đi vào kinh mạch trung ương trong quãng đời một trăm năm của những hơi thở như vậy, và chia nó ra. Nếu như có những hơi thở này liên tiếp, thì nó sẽ bao gồm một khoảng thời gian ba năm và ba tuần trăng. Con số này xuất xứ từ đó, chứ không phải là tùy tiện. Nó thể hiện việc mình thật sự muốn đưa tất cả những luồng khí này vào kinh mạch trung ương.

Khi hiểu điều đó, thì nó có thể khích lệ mình; nhưng không nên ngây thơ khi nghĩ rằng điều duy nhất mà mình phải làm là một khóa nhập thất ba năm, là sẽ giác ngộ. Có khả năng là ta sẽ rất thất vọng khi kết thúc khóa nhập thất, đặc biệt nếu như mình sẽ dành phần lớn thời gian để tâm trí đi lang thang. Phải tránh quan niệm sai lầm rằng nó sẽ dễ dàng, nên đừng giãi đãi với việc tu hành. Chúng ta thường muốn có một đường tu dễ dàng và nhanh chóng, vì không muốn bỏ ra công phu khó nhọc. Chúng ta rất bận rộn, và không có nhiều thời gian. Do đó, mình muốn giác ngộ với giá rẻ.

Pháp Tu Sơ Khởi Thông Thường

Nếu như xem xét tất cả các giáo pháp, không cần biết mình xuất thân từ truyền thống nào, thì tất cả đều nhấn mạnh là trước khi mình có bất cứ khả năng thành công nào trong Mật tông, thì phải tu tập cái gọi là “pháp tu sơ khởi”. Luôn luôn có hai bộ pháp tu sơ khởi, và không thể bỏ qua pháp tu nào trong hai bộ này. Một là pháp tu sơ khởi được chia sẻ, hay phổ biến: những pháp tu được chia sẻ giữa Kinh điển và Mật điển. Nếu như nghe chữ “phổ biến”, thì mình có thể liên kết chữ này với chữ bình thường, như thể mình không thật sự cần có nó. Nhưng chữ này thật sự có nghĩa là được chia sẻ.

Ngoài ra còn có những pháp tu sơ khởi phi thường, chỉ dành riêng cho hành trì Mật tông. Nói chung thì có rất nhiều sự hiểu lầm, bắt nguồn từ bản dịch. Chúng ta có thuật ngữ “pháp tu sơ khởi” này, và nghĩ rằng mình có thể tu tập mà không cần những pháp tu này. Chúng ta nghĩ rằng mình không cần chúng, nên hãy tiếp tục với những pháp tu hay ho. Một sự hiểu biết chính xác hơn về thuật ngữ này là chữ “dự bị”. Đây là những pháp tu dự bị, và mình phải chuẩn bị. Cách mà một trong những vị thầy của tôi giải thích nó là sử dụng một hình ảnh của Tây Tạng như một phép ẩn dụ. Nếu như sắp có một chuyến đi dài, thì mình phải chuẩn bị rất tốt. Chúng ta phải sửa soạn hành lý và sắp xếp mọi thứ, để chúng có thể chất gọn trên lưng của những con yak, vân vân.

Tương tự như vậy, dù rõ ràng là mình không có một chuyến đi xa bằng yak ở Na Uy, hoặc ở phương Tây, nhưng nếu như sẽ thực hiện một hành trình tâm linh tuyệt diệu, thì mình phải chuẩn bị. Phải sắp đồ vô giỏ. Trong chuyến du hành này thì mình phải hiểu biết về những giáo pháp cơ bản. Điều này sẽ cung cấp bối cảnh mà mình sẽ tu tập Mật tông. Nếu như không có điều này thì Mật tông dường như là một sự điên rồ tuyệt đối. Nếu không thì ta có thể tưởng tượng mình là Chuột Mickey (Mickey Mouse) hay Nàng Tiên Màu Đỏ (Red Fairy), và đưa mọi người đến Disneyland, hay đại loại là nơi nào giống như vậy. Mật tông không phải là tất cả những điều này.

Hành Trì Pháp Tu Ngondro Quá Sớm

Những pháp tu dự bị thông thường hay chia sẻ thì hoàn toàn quan trọng. Việc bỏ qua chúng sẽ dẫn đến sự hiểu lầm kế tiếp, mà như vậy thì người ta sẽ bắt đầu tu tập các pháp tu dự bị phi thường ngay lập tức, được gọi là “ngondro”. Ý nghĩa của chữ Tây Tạng theo nghĩa đen là “điều gì đi trước”. Ngondro thường được xem là những bộ của 100,000 lễ lạy và 100,000 pháp tu này, và 100,000 pháp tu kia. Thật ra thì nó sẽ trở thành một vấn đề lớn, khi mình tu tập những pháp tu này mà không có pháp tu dự bị thông thường. Theo truyền thống Kagyu thì những pháp tu dự bị thông thường này được trình bày dưới dạng bốn tư tưởng hướng tâm về Pháp. Những điểm này rất quan trọng, vì nếu như không có chúng thì việc tu tập của mình sẽ không có ý nghĩa gì cả.

Ôn Lại Bốn Tư Tưởng Hướng Tâm Về Pháp Một Cách Ngắn Gọn

Nếu chỉ ôn lại bốn tư tưởng này một chút, thì mình có kiếp người quý báu, và phải suy niệm về cái chết và vô thường, nên không thể lãng phí thời gian. Đây là hai tư tưởng đầu tiên. Cần phải đánh giá cao tất cả những điều tích cực mà mình có được trong cuộc sống, và không tốn thời giờ để phàn nàn về những khó khăn, vân vân. Tất nhiên luân hồi thì khó khăn, và không phải là điều lý tưởng, nhưng việc phàn nàn về nó sẽ không giúp ích gì, mà phải nhìn vào những điều tích cực mà mình có được, và tận dụng chúng. Đời sống quý báu này sẽ không kéo dài mãi mãi, nên đừng xem thường điều đó. Đây là điều quan trọng, đối với bất kỳ pháp tu nào mà mình sẽ tu tập.

Tiếp theo thì có luật nhân quả, tư tưởng thứ ba để hướng tâm về Pháp. Phải hiểu vận hành cơ bản của nhân quả. Điều đó dẫn đến sự hiểu biết về nghiệp, và nhu cầu kềm chế hành vi tiêu cực. Chúng ta đã tạo ra rất nhiều tập khí xấu. Nếu như xem xét lại thời gian mà mình đã dành cho những ý nghĩ và hành vi vô dụng hay tiêu cực mỗi ngày, hoặc cho những ý nghĩ và hành vi tử tế, thì những điều tiêu cực sẽ vượt xa điều tích cực. Điều này đặc biệt rõ ràng, nếu như so sánh hai điều này trong suốt đời, đừng nói gì đến những kiếp trước. Vì vậy mà mình phải kềm chế hành vi tiêu cực một cách mạnh mẽ, khi cảm thấy muốn làm điều gì tiêu cực, hành xử theo tác động của tâm tham lam, ích kỷ, sân hận, vân vân. Chẳng hạn như, chúng ta có thể si mê, làm phiền người khác vì cứ gởi tin nhắn cho họ hoài, cho rằng mình là người quan trọng nhất trên thế giới, và người khác nên bỏ qua mọi việc để hồi âm cho mình ngay lập tức. Nếu họ không trả lời thì mình sẽ rất buồn bực và tức giận. Chúng ta phải biết phân biệt. Liệu hành vi của mình có lợi hay có hại? Khi sử dụng ví dụ này thì mình phải xem xét người khác có bận hay không, thay vì chỉ làm phiền họ bất cứ lúc nào mình muốn. Điều này sẽ tạo ra kỷ luật, tất nhiên là điều cần thiết cho việc tu tập Mật tông.

Chúng ta đã quy y, dựa trên cơ sở của sự hiểu biết về nhân quả. Quy y là điều rất quan trọng, và cũng bị hiểu lầm rất nhiều. Chúng ta có xu hướng tầm thường hóa nó, khi nó không phải là điều tầm thường. Nó không chỉ là việc cắt một nhúm tóc, nhận một pháp danh Tây Tạng, và đeo một sợi dây màu đỏ. Đó hoàn toàn không phải là ý nghĩa của quy y. Không phải là bây giờ thì mình đã tham gia câu lạc bộ Phật giáo. Quy y nói về việc đưa một phương hướng tích cực và an toàn vào trong đời sống của mình, điều đã được Phật, Pháp và Tăng nêu ra. Tam Bảo là những điều mà mình đang hướng đến. Đây là ví dụ và gương mẫu của mình. Chúng ta có niềm tin xác tín rằng mình có thể đạt được những điều này, nên mới đưa phương hướng của Tam Bảo vào trong cuộc sống. Điều này sẽ đem lại ý nghĩa cho đời sống của mình.

Điều quan trọng là có một số mục tiêu và ý nghĩa trong đời sống, và cuộc sống của mình không vô nghĩa. Rồi thì quy y sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho toàn bộ việc tu tập của mình. Chắc chắn là trong Mật tông thì phải một ý thức quy y mạnh mẽ, mà không thụ động. Quy y hoàn toàn không thụ động, và không phải là vấn đề “Phật ơi, cứu con”, rồi chỉ ngồi đó, mở lòng và chờ đợi để mình được cứu rỗi. Đó có thể là sự tình trong những truyền thống khác, nhưng không phải trong đạo Phật.

Trong truyền thống Phật giáo, nếu như muốn giúp đỡ người khác và đạt giác ngộ, hay chỉ giải thoát, thì mình phải tạo ra nhân để gặt quả. Nó sẽ không xảy ra, trừ khi mình tạo ra nhân. Chúng ta phải làm điều gì đó. Phải chủ động đi theo phương hướng này để quy y. Nó có nghĩa là thật sự đưa phương hướng này vào trong đời sống, và đi theo chiều hướng đó, như Phật, Pháp và Tăng đã nêu ra.

Tiếp theo thì hãy nghĩ về những điểm bất lợi của luân hồi, tư tưởng thứ tư hướng tâm về Pháp. Nếu như thật sự tu tập Mật tông và giáo pháp một cách nghiêm chỉnh, thì điều rất quan trọng là bắt đầu xem xét tái sinh một cách nghiêm túc. Chúng ta có thể thực hành cái mà tôi gọi là Pháp Nhẹ Nhàng (Dharma-Lite), chỉ cần nghĩ về kiếp này, và tu tập để khắc phục phiền não và vọng tưởng, và đối xử tử tế với người khác. Điều này hoàn toàn ổn, nhưng nó không phải là phiên bản đầy đủ của Pháp. Có nhiều điều thiếu sót và vấn đề xảy ra, khi mình hiểu lầm rằng Pháp để chỉ nói về kiếp này.

Chẳng hạn, hãy tưởng tượng mình có một đứa con, và đứa bé qua đời. Chắc chắn là đứa bé đã không làm điều gì tiêu cực hay kinh khủng, thì tại sao điều này lại xảy ra cho nó? Đây là một vấn đề lớn, bởi vì nghiệp không có ý nghĩa gì về mặt nhân quả, nếu như mình giới hạn sự việc chỉ trong kiếp này. Một lần nữa, không phải là đứa bé đã hư hỏng trong một kiếp trước, và đáng để nhận lãnh điều này như một hình phạt. Không phải như vậy. Nghiệp tinh vi và phức tạp hơn như vậy rất nhiều.

Theo quan điểm của đạo Phật thì chúng ta có những kiếp vô thỉ, tuy điều này không dễ hiểu, nhưng nếu như không hiểu điều này, thì nó sẽ dẫn đến việc khó hiểu được bản tánh của tâm, và tánh thanh tịnh của tâm. Có một đấng sáng tạo ra tâm hay không? Nếu có thì có rất nhiều sự mâu thuẫn hợp lý bắt nguồn từ đó. Sẽ rất khó để hiểu khai thị về tánh Không, hay Không tướng, nếu như ta chỉ nghĩ về một sự khởi đầu tuyệt đối trong kiếp này. và một sự kết thúc tuyệt đối khi mình qua đời.

Do đó, khi nghĩ về những điểm bất lợi của luân hồi trong bốn tư tưởng hướng tâm về Pháp, thì mình sẽ bắt đầu hiểu toàn bộ quá trình tái sinh. Điều này rất quan trọng đối với việc tu tập Mật tông, bởi vì trong bộ Mật tông cao nhất thì mình muốn chuyển hóa và đoạn diệt toàn bộ quá trình của cái chết, trung ấm và tái sinh. Nếu như không tin vào trung ấm và tái sinh, thì việc cố chuyển hóa hay đoạn trừ chu kỳ tái sinh bất tự chủ này sẽ không có ý nghĩa gì. Luân hồi có nghĩa là sự tái sinh bất tự chủ, với tất cả những vấn đề xảy ra với loại thân tâm hạn hẹp này. Chúng ta bị bệnh, già nua, yếu đuối và mỏng manh. Tâm mình rất bối rối. Phải mất quá nhiều thời gian để lớn lên từ thời thơ ấu, và bất lực. Đó là điều đáng sợ.

Chúng ta đã tái sinh một cách vô tự chủ, vì tác động của nghiệp, và điều này phải được hiểu về mặt phiền não, và tâm thức hạn hẹp của mình. Chúng ta có tâm sân hận, vân vân, và những điều này tạo ra hành vi cưỡng bách. Do đó, điều cần thiết là phải hiểu thập nhị nhân duyên, bởi vì những điều này giải thích toàn bộ quá trình tái sinh vận hành như thế nào.

Cũng cần phải hiểu tứ diệu đế, và thông qua sự hiểu biết này mà nhận ra nỗi khổ sâu xa nhất, nguyên nhân sâu xa nhất, và thực tế là mình có thể đoạn trừ nó. Dựa vào sự thấu hiểu về tánh thanh tịnh của tâm, thì ta sẽ tự tin rằng thật sự có thể đoạn trừ mọi nỗi khổ. Tình trạng đoạn diệt tất cả những nỗi khổ là diệu đế thứ ba. Thêm vào đó, mình phải hiểu đường tu sẽ thật sự đoạn trừ nỗi khổ này, diệu đế thứ tư. Nếu như không có sự tự tin này, thì ta đang làm gì với bất cứ pháp tu nào đây, đừng nói gì đến pháp tu Mật tông? Điều trọng yếu là phải có lòng tự tin mạnh mẽ đó, biết những điều mình đang hướng đến và việc thành tựu mục tiêu là điều khả thi. Rồi thì sau đó, ta sẽ không bắt đầu nghi ngờ về việc tu tập và quán tưởng tự thân trong một sắc tướng thật là kỳ lạ, nghĩ rằng điều này là điên rồ, và tự hỏi mình đang làm điều này để làm chi. Việc này sẽ xảy ra, trừ khi mình có cơ sở vững chắc của những pháp tu dự bị này.

Tâm Xả Ly Và Bồ Đề Tâm

Dựa trên sự hiểu biết về những bất lợi của luân hồi, mà mình phải có tâm xả ly. Chúng ta muốn chấm dứt cách cư xử theo tác động của tâm sân hận và hành vi tiêu cực cưỡng bách. Chúng chỉ tạo ra càng nhiều vấn đề hơn, và tái diễn không chỉ trong kiếp này, mà còn trong những kiếp tương lai. Hội chứng sẽ còn tiếp diễn mãi mãi, nếu như không làm điều gì để ngăn chận nó. Do đó, cần có tâm xả ly, đó là quyết tâm thoát khỏi tất cả những điều này. Nhưng không chỉ một mình ta bị mắc kẹt trong điều này, mà mình cũng phải quan tâm đến người khác. Đời sống của mình không cô lập với người khác. Chúng ta đang hành trì Mật tông để làm gì? Đó là để mang lại lợi ích cho người khác; đó là lý do tại sao mình muốn đạt được trạng thái giác ngộ của một vị Phật. Bồ đề tâm là điều hoàn toàn cần thiết ở đây.

Bồ đề tâm là gì? Việc hiểu lầm thường là bồ đề tâm cũng giống như tâm bi. Không phải vậy. Lòng từ và lòng bi là những nhân tố giúp cho mình có bồ đề tâm. Bồ đề tâm tự nó tập trung vào sự giác ngộ cá nhân của mình, điều chưa xảy ra, nhưng có thể xảy ra, trên nền tảng Phật tánh. Chúng ta đang tập trung vào sự giác ngộ chưa xảy ra đó, và muốn đạt được một sự giác ngộ hiện đang xảy ra, để tạo lợi lạc cho tất cả chúng sinh, bởi vì đời sống của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc và tương quan lẫn nhau. Chúng ta không sống trong một khoảng chân không bị cô lập. Sự tồn tại của mình phụ thuộc vào lòng tốt của người khác.

Giác ngộ cá nhân mà mình đang nhắm đến để thành tựu được đại diện bằng chư Bổn tôn. Chúng ta đang nhắm đến điều gì? Chúng ta đang tưởng tượng ra những điều chưa xảy ra, nhưng có thể xảy ra, trên cơ sở của những yếu tố của Phật tánh. Đó là điều mà mình đang làm. Pháp tu Mật tông hoàn toàn gắn liền với bồ đề tâm. Ta sẽ quán tưởng và tưởng tượng mình đang giúp đỡ tất cả chúng sinh, với ánh sáng tỏa ra, và giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi nỗi khổ; nhưng nếu như không có lòng từ bi với người khác, thì tại sao ta lại làm điều này? Đó là điều ngớ ngẩn.

Lục Độ Ba La Mật, Hay Sáu Thái Độ Sâu Rộng

Ngoài ra còn có lục độ ba la mật, hay paramitas. Chúng ta muốn có lòng rộng lượng và bố thí cho người khác. Việc trì giới là điều hoàn toàn cần thiết. Có nhiều giới nguyện liên quan đến Mật tông; nếu như không có kỷ luật để giữ gìn những giới nguyện này, thì mình không bao giờ có thể giúp đỡ người khác. Không chỉ có những giới nguyện để kềm chế hành vi tiêu cực, mà còn có tam muội da giới - samaya trong tiếng Phạn và damtsig trong tiếng Tây Tạng - để hành động một cách tích cực, và cần có giới luật này để giúp đỡ tha nhân. Nó không chỉ là mình sẽ tưởng tượng việc giúp đỡ người khác, hay tưởng tượng là mình rộng lượng, nhưng khi nói đến những người sống thật sự thì lại không muốn dính líu với họ. Đó không phải là thực hành đúng đắn. Thực hành đúng đắn là áp dụng mọi việc vào trong đời sống thật, và không chỉ tưởng tượng nó trên gối thiền. Gối thiền là nơi mà mình luyện tập, để có một số ý tưởng về cách tiến hành. Nhưng mình không chỉ luyện tập, mà phải thật sự thực hiện nó trong đời thường.

Ngoài ra, còn phải có một sự hiểu biết về tánh Không - tôi thích gọi nó là “Không tướng” - nếu không thì những gì mình đang hành trì trong pháp tu là điên rồ. Ta sẽ giống như người bị tâm thần phân liệt, nghĩ rằng họ là Chúa Giê-su, hoặc Cleopatra. Thay vì vậy thì họ có thể nghĩ rằng mình là Tara, hay Đức Quán Thế Âm (Avalokiteshvara, Chenrezig). Điều này khá điên rồ, trừ khi mình thật sự hiểu những điều liên quan trong đó, và sắc tướng Tara này v.v..., là duyên sinh, dựa vào các yếu tố Phật tánh của mình, nhân quả và v.v... Việc mình thật sự là Tara không xảy ra ngay trong hiện tại. Chúng ta phải hiểu thực tại về những điều mình đang làm. Nếu không thì sự hiểu lầm có thể dẫn đến những vấn đề tâm lý rất nghiêm trọng.

Việc chuẩn bị tất cả những yếu tố này giống như việc chuẩn bị hành lý cho chuyến đi xa. Chúng ta muốn có khả năng sử dụng tất cả những điều này. Đây là việc chuẩn bị của mình.

Pháp Tu Dự Bị Không Chia Sẻ, Hay Ngondro

Pháp tu dự bị không chia sẻ gồm có những bộ 100,000 lạy và vân vân. Việc hiểu lầm là những điều này sẽ đem lại phép mầu, vì nếu như điều duy nhất mà ta phải làm là 100,000 lạy, 100,000 lễ cúng dường, rồi thì tất cả những vấn đề của mình sẽ biến mất. Một số người thật sự có thể mong đợi phép mầu xảy ra, và khi chúng không xảy ra thì một số người có thể rất thất vọng về toàn bộ việc tu tập Pháp. Phải hiểu mục tiêu của những pháp tu ngondro này.

Chúng ta đang tu tập chúng để tích tập công đức, và làm suy yếu ác nghiệp của mình. Khi nói về nghiệp, là kết quả từ hành vi của mình, mà mình sẽ tích tập thiện nghiệp hay ác nghiệp. Nó có thể là thiện nghiệp, theo nghĩa của thiện nghiệp loạn thần, như trong ví dụ về một người cầu toàn, hay có thể là thiện nghiệp được hồi hướng với bồ đề tâm, để trở thành nhân giác ngộ. Phải phân biệt hai hình thức về mặt này. Nói theo từ ngữ khoa học thì những gì mình muốn làm với pháp tu ngondro là bắt đầu tạo ra những đường dây thần kinh tích cực hơn, dành riêng cho giác ngộ.

Tất cả chúng ta đều có tính khả biến thần kinh (neuro plasticity) mà nhờ đó, bộ não có thể tự kết nối lại với nhau. Hãy nghĩ về những đường dây thần kinh tiêu cực mà ta đã có, từ những tập khí mà mình đã tạo ra, đặc biệt là nếu như nghĩ về những kiếp vô thỉ. Chúng ta đã hành xử dưới tác động của tâm sân hận, ích kỷ, tham lam và si mê, nghĩ rằng mình là người quan trọng nhất, và mọi việc phải luôn xảy ra theo ý của mình. Phải nghĩ về tất cả những tập khí tiêu cực của những điều như bỏ qua thực tế là người khác cũng có cảm xúc giống như mình. Việc bỏ mặc người khác như vậy là một cách si mê về thực tại và về tác động từ hành vi của mình, như thể mình có thể luôn luôn đối xử với người khác một cách thậm tệ, mà không có sao cả. Ví dụ như chúng ta có thể cãi nhau trước mặt một đứa bé, và vì nó không hiểu gì cả, nên không có vấn đề gì.

Những đường dây thần kinh này khiến cho mình hành động theo thói quen, là điều vô cùng mạnh mẽ. Chúng thâm căn cố đế, vì mình đã lập đi lập lại những điều này. Cách phân tích này là sự hiểu biết ở một mức độ khác nhau về những bất lợi của luân hồi, hành vi tái diễn một cách bất tự chủ của mình. Đây là nghiệp, điều tái diễn một cách bắt buộc và bất tự chủ. Vì điều này mà mình muốn tạo ra những đường dây thần kinh tích cực, và nó không dễ dàng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều việc lặp đi lặp lại. Việc lặp đi lặp lại là cách người ta tạo ra những đường dây thần kinh. Do đó mà việc làm một điều gì đó 100,000 lần là không đủ, hay không phải là một con số thần kỳ; nó chỉ rất nhiều, và có nghĩa là như vậy.

Việc lặp đi lặp lại như vậy bắt đầu tạo ra những đường dây thần kinh tích cực hơn, và đó là điều mà mình muốn làm. Đó là lý do tại sao mình hành trì những pháp tu ngondro này. Những pháp tu dự bị này bắt đầu tạo ra thiện nghiệp đó, và làm suy giảm ác nghiệp. Nếu như mình chỉ hành trì pháp tu một cách thờ ơ, đôi khi thì hành thiền, đôi khi thì không, thì việc lặp đi lặp lại sẽ không đủ. Nó đòi hỏi việc lặp đi lặp lại một cách liên tục và kiên trì, để bắt đầu tạo ra đường dây thần kinh mới. Về mặt Kinh điển thì mình nói về cách phải tích tập mãnh lực này qua ba vô lượng a tăng kỳ kiếp. “Vô lượng” là tên của con số số lớn nhất trong hệ thống toán học Ấn Độ, nên mình cũng có thể gọi nó là ba a tăng kỳ kiếp, mặc dù nó cũng là một chữ mơ hồ trong tiếng Anh. Chúng ta phải tạo ra rất nhiều yếu tố này, để chống lại sự kiện là mình đã tạo ra vô lượng ác nghiệp từ vô thỉ. Chúng ta sẽ phải bỏ ra một khoảng thời gian rất lớn.

Việc Khuyến Tấn Trong Kinh Điển Đại Thừa

Khi nói chuyện bên lề thì Kinh điển Đại thừa có nhiều lời tán thán oai lực của việc đọc kinh hay trì tụng mật chú, và việc này sẽ tịnh hóa, chẳng hạn như, 60,000 a tăng kỳ kiếp ác nghiệp. Chúng chứa đầy những con số tuyệt vời như vậy. Điều này có vẻ điên rồ, và ta có thể tự hỏi điều này là gì, và cảm thấy gần như xấu hổ về nó. Tuy nhiên, nếu như nghĩ về điều đó thì Đức Phật không hề ngu muội. Có mục đích cho tất cả những điều này. Tuy một số người có thể xem những con số này theo nghĩa đen, nhưng cách mà tôi nghĩ nó có ý nghĩa là tạo ra cho mình sự khích lệ. Khi nghe về ba hàng tỷ, hay công đức của ba vô lượng a tăng kỳ kiếp, và nghĩ rằng nếu như mình tụng một câu mật chú nào đó, thì nó sẽ giải quyết ít nhất là 60,000 a tăng kỳ kiếp ác nghiệp trong số này, thì có thể làm giảm bớt một số ác nghiệp trong số lượng lớn lao. Điều đó sẽ khích lệ chúng ta.

Điều quan trọng là không đi đến cực đoan về việc tích tập đủ công đức là điều quá dễ dàng; nhưng cũng tránh cực đoan xem đó là điều không thể thực hiện được. Các Kinh điển Đại thừa này giúp cho mình bắt đầu suy nghĩ theo số lượng rất lớn. Những Kinh điển này đưa lời dạy của Đức Phật đến với số lượng chúng sinh đáng kinh ngạc trong tất cả những cõi khác nhau đã hiện diện ở đó, và đang có mặt trong hiện tại. Chúng ta có thể nghĩ rằng đó là một chuyện cổ tích, hay có thể nghĩ rằng đây là một cách để mở mang tâm trí, để nghĩ về tất cả chúng sinh. Mình phải bắt đầu nghĩ theo những số lượng rất lớn, và phạm vi rất lớn; và việc tịnh hóa và tích tập công đức này là điều khả dĩ. Nhưng ta phải làm điều đó bằng nỗ lực của riêng mình. Vì vậy nên mới có những pháp tu dự bị sơ khởi này.

Cách Không Tu Tập Ngondro

Điều quan trọng là không chỉ lễ lạy như một bài tập thể dục, mà không có điều gì xảy ra trong tâm trí. Điều đó không tạo ra rất nhiều hiệu quả. Nếu chỉ là như vậy, thì mình cũng có thể hít đất 100,000 lần, hay làm điều gì đó giống như vậy. Chắc chắn lễ lạy không phải là như vậy. Ngoài ra, còn phải tập trung tinh thần. Nếu như lễ lạy mà tâm trí lang thang khắp nơi, chỉ mong cho thời công phu kết thúc, thì điều đó cũng không có rất nhiều hiệu quả. Chúng ta muốn tạo ra một con đường tích cực. Việc làm điều gì qua thân và khẩu cùng một lúc với tâm trí sẽ rất hữu ích, để tránh tâm phóng dật.

Rất dễ có thói quen thực hiện tất cả những pháp tu chỉ ở trong đầu, về mặt tinh thần. Nói từ kinh nghiệm riêng thì tôi cũng tội lỗi về điều này. Nếu như chỉ làm việc gì trong trí óc thì khó tập trung hơn nhiều. Nếu như mình làm điều gì bằng thân thể, cộng với việc trì tụng điều gì trong cùng một lúc, thì sẽ không còn nhiều cơ hội để phân tâm. Việc kết hợp thân, khẩu và ý thật là điều rất thiện xảo. Chắc chắn là như một vị Phật thì mình sẽ muốn có thân, khẩu và ý kết hợp đầy đủ.

Do đó, việc có thói quen kết hợp thân, khẩu, ý vào trong hành trì, đặc biệt là khi thực hành những pháp tu ngondro này là điều rất hữu ích. Nó không đơn giản là làm điều gì đó bằng thân thể, và tụng blah, blah, blah. Trong mỗi truyền thống sẽ có điều gì khác nhau mà mình sẽ tụng. Không phải chỉ có một cách duy nhất để làm điều đó. Nếu như nghĩ về Pháp và cách mà Đức Phật khai thị bằng phương tiện thiện xảo và những phương tiện khác nhau cho những người khác nhau, thì dĩ nhiên là có cách tu tập theo nhiều hình thức khác nhau. Điều đó ổn thôi. Đó là một sự hiểu lầm lớn, khi nghĩ rằng mình đúng và những người khác đều sai, và đưa tâm lý cạnh tranh này vào trong việc tu tập.

Khi lễ lạy thì ta sẽ hiểu pháp quy y, rằng mình đang noi theo phương hướng tích cực của Phật, Pháp và Tăng, và đây là những đối tượng mà mình đang lạy. Chúng ta muốn tự mình đạt được trạng thái này của Phật, Pháp, Tăng, và tôn trọng điều này. Điều hữu ích là nghĩ về quy y và lễ lạy về mặt kết quả, những người đã thành tựu nó; đường tu, sự giác ngộ mà mình đang hướng đến để đạt được bằng tất cả những pháp tu này; và nền tảng, các yếu tố Phật tánh mà dựa vào đó, mình có thể đạt được điều đó. Sau đó, hãy thể hiện lòng tôn trọng bằng cách chú tâm vào lý do tại sao ta đang làm những điều mà mình đang làm. 

Pháp Tịnh Hóa Kim Cang Tát Đỏa, Dựa Vào Tâm Xả Ly

Một pháp tu ngondro lớn khác là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva). Pháp tu Kim Cang Tát Đỏa phải dựa vào tâm xả ly về hai diệu đế đầu. Chúng ta đang cố tịnh hóa điều gì bằng pháp tu Kim Cang Tát Đỏa? Đó là khổ và nhân tạo khổ. Phải hiểu điều này, và tự tin vào diệu đế thứ ba và thứ tư. Phải chắc chắn rằng mình có thể thật sự đoạn trừ tất cả những tiềm năng tiêu cực. Ta sẽ làm điều này bằng cách áp dụng lực đối trị. Tuy nhiên, Pháp tu Kim Cang Tát Đỏa là một sự tịnh hóa tạm thời. Điều duy nhất thật sự sẽ đoạn trừ ác nghiệp này là cách chứng ngộ tánh Không, để không lặp lại hành vi tiêu cực. Chúng ta có thể dọn dẹp tâm thức bằng pháp tu Kim Cang Tát Đỏa, nhưng điều này không đảm bảo là mình sẽ không hành xử một cách tiêu cực nữa.

Phải hoàn toàn tự tin vào tứ diệu đế. Do đó, hãy áp dụng lực đối trị như Kim Cang Tát Đỏa và vân vân, để tịnh hóa ác nghiệp. Nếu như không có điều này, thì mình đang làm gì đây? Chúng ta chỉ trì tụng một trăm âm, và điều đó không có ý nghĩa gì cả. Đó là lý do tại sao mình có pháp tu Kim Cang Tát Đỏa phức tạp này, và tưởng tượng việc tịnh hóa đang xảy ra một cách sinh động.

Cúng Dường Mạn Đà La

Điều rất quan trọng để hành trì pháp tu ngondro tiếp theo là cúng dường mạn đà la với lòng từ bi và hạnh bố thí. Chúng ta đang cúng dường, và những gì mình muốn cúng dường là hoàn cảnh thuận lợi nhất cho tất cả chúng sinh, để họ có thể đạt giác ngộ. Cách trì tụng truyền thống tiêu chuẩn, như cách tôi dịch là:

Với cúng dường dâng lên các cõi Phật nền tảng này, tẩm đầy nước thơm, rải rắc nhiều bông hoa, trang nghiêm với núi Tu Di, bốn lục địa, mặt trời và mặt trăng, nguyện tất cả chúng sinh trôi lăn trong luân hồi đều được dẫn dắt về tịnh độ.

Điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là nguyện cho tất cả chúng sinh có thể tu tập ở tịnh độ, mà mình hình dung theo cách truyền thống của Ấn Độ với núi Tu Di (Mount Meru), v.v... Đặc điểm địa lý của cõi này không phải là điểm chánh. Vấn đề là mình đang tưởng tượng và cúng dường hoàn cảnh thuận lợi nhất cho tất cả chúng sinh, để họ có thể đạt được giải thoát và giác ngộ. Nguyện cho tất cả mọi thứ đều hoàn hảo trong cõi tịnh độ, để tất cả chúng sinh có thể tu tập Pháp 24 tiếng một ngày, bảy ngày một tuần, chứ không phải chỉ rong chơi và tận hưởng nơi đó. Trong toàn bộ thời gian ở đó thì mình sẽ tu hành, nghe thuyết Pháp và vân vân, để đạt giác ngộ.

Nhờ vậy mà mình đang thực hành hạnh bố thí, muốn cho tất cả chúng sinh có được điều này. Nếu không thì ta sẽ giống như một đứa trẻ chơi với các vòng khoen và gạo, vân vân, và sẽ không có ý nghĩa gì.

Guru Yoga

Pháp tu ngondro của guru yoga (bổn sư du già) chỉ có ý nghĩa, khi mình có bồ đề tâm, nếu không thì nó chỉ là một giáo phái về nhân cách, và có thể khá kỳ lạ. Nó có thể đi vào chiều hướng rất tiêu cực. Chúng ta muốn có được cảm hứng về mặt thân, khẩu, ý, thường là từ người sáng lập truyền thống của mình, hay nhân vật vĩ đại nào đó. Chúng ta đang làm gì đây? Vị này đại diện cho giác ngộ mà mình chưa đạt được. Chúng ta muốn thành tựu trạng thái giác ngộ này với bồ đề tâm. Chúng ta thấy điều này được phản ánh trong vị bổn sư. “Nguyện cho con có nguồn cảm hứng, để có thể đạt được trạng thái giác ngộ mà ngài là đại diện cho điều đó.”. Điều này được hướng đến guru, yidam hay Phật. Đó là guru yoga, không phải là pháp tôn thờ guru. Nó không phải là như vậy.

Thấu Hiểu Mục Tiêu Của Ngondro

Những pháp tu dự bị cơ bản không được chia sẻ này đều dựa trên những điều được chia sẻ: bốn tư tưởng hướng tâm về Pháp, với quy y, lục độ ba la mật và bồ đề tâm dựa vào chúng. Ngondro không phải là một phương thuốc thần kỳ cho những vấn đề của mình. Nó không phải là cách để trả nợ cho những ác nghiệp của mình, vượt qua nó càng nhanh càng tốt, để có thể tham gia vào đám đông thịnh hành, và có những điều tốt đẹp. Nó không được thực hiện với ý tưởng mình là tội nhân, và đây là hình phạt của mình, mà ta phải làm để bù đắp cho tội lỗi, để Đức Phật tha thứ cho ta. Đó là một sự hiểu lầm hoàn toàn về đường tu nhà Phật.

Hãy cố gắng hiểu mục tiêu của ngondro. Đó là tạo ra những đường dây thần kinh tích cực hơn, và không chỉ phủ phục xuống đất để lạy. Đó không phải là vấn đề. Hành vi của thân và khẩu mà mình đang nói đến là những yếu tố hỗ trợ, để giúp cho ta tập trung vào tâm trạng tích cực.

Nhận Lễ Điểm Đạo Và Thực Hành Pháp Tu Mật Tông Quá Sớm

Khi có lễ điểm đạo thì điều quan trọng là không nên tham dự, chỉ vì người khác đi nhận lễ điểm đạo, và mình cảm thấy phải đi với họ, nếu không thì người ta có thể nghĩ xấu về mình. Không nên đi theo cách như vậy. Điều rất quan trọng, và được nhấn mạnh nhiều lần trong giáo pháp, là phải tìm hiểu vị thầy và pháp tu Mật tông này trước đó. “Đây có phải là điều mà tôi thật sự muốn tu tập không? Tôi đã sẵn sàng để làm điều đó chưa? Đây có phải là một đạo sư mà tôi có thể tin tưởng không? Đây có phải là vị thầy mà tôi có tín tâm hay không?”.

Đừng đi theo một vị thầy vì tên tuổi lớn của họ, hay vì họ có sức lôi cuốn. Hitler cũng có sức lôi cuốn, nhưng điều đó không có nghĩa là phải chạy theo người nào, chỉ vì danh tiếng hay nhân cách lôi cuốn của họ. Không phải ai cũng cảm thấy một sự kết nối chặt chẽ với tất cả các vị thầy, thậm chí tất cả các đạo sư vĩ đại. Chúng ta là những cá nhân. Mình phải cảm thấy là vị thầy này truyền cảm hứng, và có một mối liên hệ nào đó với ông hay bà ấy, nếu không thì nó sẽ không hữu hiệu. Tuy người khác có thể cảm thấy mối liên hệ này với một vị Lạt ma vĩ đại nào đó đang ban lễ quán đảnh, nhưng mình thì không. Điều đó ổn thôi. Đừng cảm thấy là mình bắt buộc phải đi nhận lễ điểm đạo, chỉ vì nó đang xảy ra.

Điều được nêu trong giáo pháp là nếu như chưa chuẩn bị mà lại nhận lễ điểm đạo và tu tập Mật tông, và không có giai đoạn phát triển của bồ đề tâm - không nhất thiết là bồ đề tâm bất dụng công, khi mà mình có nó trong mọi lúc, mà là một mức độ bồ đề tâm sâu sắc – thì nó chỉ đưa đến việc tái sinh thành ma quỷ trong hình tướng của một trong những vị Bổn tôn này. Tại sao? Đó là vì công đức mà mình tích tập không được hồi hướng cho giác ngộ. Nó chỉ là công đức trong luân hồi. Chúng ta đang tưởng tượng mình trong sắc tướng của vị Bổn tôn này, nên nó là một sự tái sinh trong hình tướng ma quỷ của vị Hộ Phật này.

Nếu như nghĩ về nó thì điều này khá kinh khủng. Vấn đề là không nên tu tập Mật tông, cho đến khi mình cảm thấy đã sẵn sàng. Điều đó không có nghĩa là mình không thể tham dự những lễ điểm đạo này. Nó có thể là một điều rất truyền cảm. Nhưng như nhiều đạo sư truyền thống đã dạy trong văn học thì trừ khi mình thọ giới, nếu không thì chưa nhận được lễ điểm đạo, dù đã có mặt ở đó. Chúng ta phải thọ giới. Bồ tát giới có mặt trong tất cả các bộ Mật điển. Trong hai bộ Mật điển cao hơn thì mình còn có Mật giới nữa. Và, như A Đề Sa nhấn mạnh trong Đèn Soi Nẻo Giác (Lamp for the Path to Enlightenment) thì cần có một nền tảng, ít nhất là ở mức độ biệt giải thoát giới (pratimoksha) cho giải thoát cá nhân - hay là giới cư sĩ hay xuất gia - để có một bình chứa, để có thể thọ nhận và giữ Bồ tát giới.

Nếu chỉ có mặt trong lễ điểm đạo, và không biết chuyện gì đang xảy ra, thì mình chưa thọ giới. Người ta thường hiểu lầm rằng: “Tôi đã có mặt ở đó, và không biết chuyện gì đang xảy ra. Không có người thông dịch, hay tôi không hiểu người thông dịch nói gì, và bây giờ thì bị mắc kẹt với điều này.”. Nó không phải như vậy. Trừ khi mình có ý thức thọ giới, còn không thì vẫn chưa thọ giới. Do đó, chúng ta có thể có mặt ở đó, như Đức Dalai Lama mô tả, làm một “người quan sát trung lập”. Điều này hoàn toàn tốt. Người Tây phương gọi đó là “nhận lực gia trì”. Điều đó ổn thôi. Không có gì sai trái hết. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ vì mình đã ở đó để nhận nguồn cảm hứng như một người quan sát trung lập, thì mình đã thọ giới nguyện và cam kết, và bây giờ sẽ tu tập Mật tông.

Giới Nguyện

Đối với việc thọ giới thì như một trong những vị thầy của tôi đã nói, “Rất may mắn là không có thêm nhiều loại giới nữa, vì mình cũng sẽ thọ những giới này, và cũng không giữ giới.”. Nếu như đã thọ giới, thì phải rất nghiêm túc là sẽ cố gắng giữ giới, và không xem giới nguyện là hình phạt hay những điều hạn chế. Trên thực tế thì chúng là những tôn chỉ rất hữu ích. Đây là những ranh giới hay giới hạn mà mình không muốn vượt qua. Chúng sẽ định hình cho hành vi của mình. Việc có một số kim chỉ nam về loại hành vi hay thái độ nào bất lợi nhất đối với việc giúp đỡ người khác là điều rất hữu ích.

Ví dụ như bồ tát giới đầu tiên là không tự khen mình và hạ thấp người khác vì lòng tham ái, ganh tị, v.v..., vì nếu như mình luôn luôn hành động như thể là “Tôi là người tốt nhất, còn những người khác đều không tốt”, thì người ta sẽ không tin tưởng mình. Người ta sẽ cảm thấy có điều gì không ổn, rằng mình đang chào hàng món gì với họ, hay một vị thầy đang tự rao bán bản thân mình như một vị thầy. Điều này không hữu ích. Nếu như mình đang nói những điều không hay về người nào đó, thì mọi người sẽ nghĩ có thể kế tiếp là mình sẽ nói những điều không hay về họ, khi họ không có mặt. Nó sẽ gây ra sự ngờ vực, và điều đó sẽ ngăn chận việc mình có thể giúp đỡ họ. Phải hiểu giới nguyện theo cách như vậy.

Mật giới không dễ giữ gìn – chẳng hạn như thiền quán về chánh kiến tánh Không sáu lần trong một ngày. Nếu như không có khái niệm gì về chánh kiến, thì làm sao mình có thể làm điều đó? Khi tham dự lễ điểm đạo thì phải có sự cân nhắc nghiêm túc. Liệu mình đã quán xét xem mình có muốn thực hiện pháp tu này hay không? Đó là toàn bộ quan điểm của việc thọ nhận một lễ điểm đạo cho một pháp tu nào đó. Vấn đề là mình muốn hành trì pháp tu đó; nếu không thì tại sao mình lại có mặt ở đó? Để nhận lực gia trì và cảm hứng hay sao? Vậy thì cũng tốt thôi, nhưng sẽ không xong, nếu như mình không thật sự có mặt ở đó để hành trì pháp tu. Có thể là ta không dự định hành trì pháp tu ngay lập tức, nhưng có lẽ đó là một vị Lạt ma rất cao tuổi, và là người mà mình rất kính trọng, và có thể ngài sẽ không tại thế cho đến khi mình sẵn sàng tu tập nó. Vì vậy nên bây giờ, mình muốn gieo tiềm năng để có thể làm điều đó sau này. Điều đó cũng được, nhưng mình phải giữ giới cho đến lúc đó. 

Thân Phật

Điều rất quan trọng là hiểu những gì mình đang làm, đối với việc nhận những lễ điểm đạo này. Như tôi đã nói, nếu như không có bồ đề tâm thì việc quán tưởng tự thân như một trong những yidam này, những vị Bổn tôn này, sẽ tạo ra nhân để tái sinh thành ma quỷ trong hình tướng của các Bổn tôn này. Nhưng với bồ đề tâm thì mình đang hồi hướng công đức của việc tu hành này cho giác ngộ. Một lần nữa, ta sẽ trở lại với nghiệp. Thay vì được tái sinh với một thân thể trong luân hồi, và tất cả những điểm hạn chế của nó, thì mình muốn giả hiện trong sắc tướng của một yidam. Yidam là một bậc thiền định, hay đôi khi được gọi là Bổn tôn. Tại sao? Có sự hiểu lầm nào về điều đó hay không? Không phải nó khá kỳ lạ hay sao? Có phải đó là điều mình muốn làm, là trở thành vị này, với tất cả những cánh tay, khuôn mặt, chân và v.v.., cầm tất cả các pháp khí này? Đó là gì vậy?

Nói cách khác là sắc thân của một vị Phật, sắc tướng mà một vị Phật xuất hiện, là để hoàn thành mục tiêu của tha nhân. Pháp thân sẽ hoàn thành mục tiêu của một vị Phật để thành tựu chân diệt của mọi ám chướng, trở nên toàn tri, có lòng từ bình đẳng cho tất cả chúng sinh, v.v... Mục tiêu của một vị Phật là giúp đỡ tất cả chúng sinh, nhưng rồi thì mình thật sự giúp đỡ chúng sinh bằng thân thể và lời nói. Việc giả hiện trong sắc tướng của những yidam hay Bổn tôn này là một phương tiện để tạo lợi lạc cho tha nhân. Nó sẽ tạo lợi lạc cho người khác như thế nào? Mỗi cánh tay, mỗi khuôn mặt, mỗi một cái chân đại diện cho một tuệ giác khác nhau, một chứng ngộ hay hiểu biết khác nhau trong giáo lý cơ bản. Ví dụ như sáu cánh tay là lục độ ba la mật. Ba khuôn mặt là thân, khẩu, ý. Tất cả mọi thứ đều đại diện cho điều gì đó. Vậy thì chư Bổn tôn này là các đồ họa thông tin (infographic). Các ngài là những sắc tướng giúp cho mình kết hợp tất cả các giáo pháp khác nhau, đồng thời chánh niệm về chúng. Đây là điều mà mình muốn có khả năng thực hiện như một vị Phật. Chúng tôi đang hiển lộ trong những sắc tướng khác nhau, như những phương tiện mà người khác có thể thực hành. Đây là điều này khá quan trọng để hiểu.

Thay vì thiện nghiệp trổ quả trong một môi trường luân hồi tốt đẹp, thì mình muốn nó trổ trong một môi trường hoàn hảo, lý tưởng cho việc tu tập. Đây là mạn đà la. Một lần nữa, mỗi một đặc điểm kiến trúc đại diện cho một khía cạnh của đường tu nhà Phật, và giúp cho người khác chánh niệm về tất cả những điều này.

Thay vì phải lặp lại những tập khí luân hồi, thì mình muốn có những công hạnh khai sáng của một vị Phật, đang thật sự giúp đỡ và truyền cảm hứng cho người khác. Thay vì hạnh phúc thông thường của mình xuất phát từ công đức trong luân hồi, thì mình muốn có được tâm cực lạc của một vị Phật, không liên quan đến sự mê lầm nào, và không có giới hạn.

Nếu như mình sẽ tu tập Mật tông và nhận lễ điểm đạo, thì điều rất quan trọng là phải hiểu biết Mật tông là gì. Phải có tín tâm về phương pháp của Mật tông, để thật sự tu tập nó. Không nên chỉ dựa trên cơ sở vì một đạo sư tán thán nó, hay nghe lời tuyên truyền đó là pháp tu dễ dàng hay nhanh chóng, và mình cần có một pháp tu nhanh chóng, vì không có nhiều thì giờ. Phải có sự hiểu biết cơ bản về những gì mình đang tham gia tu tập.

Giáo Pháp Về Bảy Bảo Châu 

Đối với điều này thì tôi luôn thấy lời dạy và trình bày về bảy bảo châu rất hữu ích. Ngài A Đề Sa (Atisha) nhấn mạnh điều này khá nhiều trong tác phẩm Bồ Đề Bảo Xuyến (Bodhisattva’s Garland of Gems) của ngài. 

(1) Trước hết là có lòng tự tin, đôi khi được dịch là tín tâm, nhưng chữ này không thật sự truyền đạt ý nghĩa của nó. Mình phải tự tin về giáo pháp. Nếu như không tự tin vào các phương pháp của Mật tông, rằng chúng có hiệu quả, và mình có thể đạt được giác ngộ, thì nó sẽ không hữu hiệu. Cần phải tự tin vào những gì mình đang đạt được, rằng mình có thể đạt được chúng, và thật sự có thể làm điều đó.

(2) Điều thứ hai là giới luật. Nếu như không thọ giới và có kỷ luật kềm chế hành vi tiêu cực, không tham gia vào hành vi xây dựng tích cực, không có kỷ luật để hành thiền và thực hiện tất cả các pháp tu, thì không có Mật tông.

(3) Bảo châu tiếp theo là hạnh bố thí. Phải dành thời gian cho pháp tu này. Ngoài ra, ta đang tưởng tượng mình đang giúp đỡ mọi người, nên việc này cần có sự bố thí thời gian của mình. Điều này phải có mặt ở đó. Không thể trông mong việc gấp rút. Điều này sẽ mất rất nhiều thời gian và nỗ lực.

(4) Chúng ta cũng phải lắng nghe. Phải thọ nhận những chỉ giáo thích hợp và tư duy về chúng, để tự tin vào sự hiểu biết của mình. Trên cơ bản thì việc lắng nghe nghĩa là học hỏi; cho dù đó là đọc sách, hay bất cứ điều gì, để mình có tất cả thông tin về giáo pháp, và sẽ tư duy về nó, thấu hiểu và tiêu hóa nó. Sau đó, với tín tâm thì mình có thể kết hợp nó với các phương pháp Mật tông.

(5) Cũng có một ý thức về phẩm giá đạo đức. Chúng ta không vi phạm giới nguyện, và có đủ lòng tôn trọng đối với bản thân, dựa vào Phật tánh, nên sẽ không hành xử theo một cách điên rồ nào đó. Như đã được nhấn mạnh nhiều lần là hãy giữ những pháp tu này một cách bí mật, như nó thường được dịch. “Bí mật” không thể hiện đúng ý nghĩa cho lắm. Thật ra thì ý nghĩa hữu ích nhất là giữ kín pháp tu. Đừng quảng cáo cho mọi người biết mình đang làm gì. Đừng treo hình ảnh của chư Bổn tôn đáng sợ hay lõa thể trong phòng khách, nơi mà người nào bước vào đều sẽ nhìn thấy nó, rồi tự hỏi nó là gì, hay bắt đầu chê bai nó, hoặc nghĩ rằng mình đang làm điều gì rất kỳ lạ. Không có gì nản lòng hơn khi người khác chỉ trích, hay xem những điều mình đang làm như trò cười. Hãy giữ kín điều này. Việc ta đang làm gì với pháp tu của mình thì không phải là chuyện của người khác. Hãy xem điều này một cách nghiêm túc.

Có một phần trong lễ điểm đạo nói rằng hành giả phải giữ kín pháp tu, và mô tả tất cả những điều khủng khiếp sẽ xảy ra, nếu như không giữ kín việc này. Chúng ta có thể xem những điều như là “bị đập đầu” theo nghĩa đen; hay cũng có thể hiểu nó như là hoàn toàn phá hủy lòng tự tin và năng lượng của mình trong quá trình tu tập. Nếu như ta đang thực hành phương pháp này, mà mọi người lại chế nhạo và chỉ trích, thì mình sẽ không muốn như vậy. Pháp tu này là điều gì mà ta muốn trân trọng như điều gì rất đặc biệt và quý giá mà mình đang làm. Đừng chỉ quảng cáo nó bằng một chiếc áo thun Kalachakra, ví dụ vậy.

(6) Một bảo châu khác là việc quan tâm đến cách hành động của mình sẽ phản ánh về người khác ra sao, đặc biệt là vị thầy và dòng truyền thừa của mình. Chúng ta đang hành trì Mật tông, ví dụ vậy, nhưng rồi lại say rượu, đánh nhau và gây ra đủ điều phiền phức, thì sẽ không xong. Điều này đặc biệt quan trọng, nếu như mình không thuận thảo với cha mẹ, và không chăm sóc họ. Nó sẽ tạo ra phản ánh xấu về đạo Phật và các vị thầy của mình.

Đôi khi, tôi hỏi các học sinh của mình tại sao họ không đi trộm cắp. Tại sao? Có phải vì họ sợ xuống địa ngục? Không ai nghĩ như vậy. Thường thì họ không cảm thấy điều đó là đúng. Họ chỉ không muốn làm những điều như vậy. Tại sao? Đó là vì họ có đủ lòng tự trọng. Đó là yếu tố này, được nói đến trong bảo châu này. Chúng ta có đủ lòng tự trọng để không hành động như vậy, và suy xét về cách nó sẽ phản ánh về vị thầy và dòng truyền thừa của mình ra sao.

(7) Bảo châu cuối cùng là trí tuệ về tánh Không, về bản ngã, người đang tu tập, những gì mình đang hành trì, và chính pháp tu này. Cả ba yếu tố đều sinh khởi phụ thuộc vào nhau. Không phải là mình giống như con sâu thảm hại ở đây, và vị thầy rất tuyệt vời ở trên cao, và pháp tu thì rất đặc biệt. Vấn đề là chỉ thực hành mà không thấy lúng túng. Không phải mình là một hành giả vĩ đại làm điều này hay điều kia; hay mình rất tệ hại, là một hành giả xấu, và vân vân. Đừng làm cho nó có tính nhị nguyên, mà chỉ cần hành trì với sự hiểu biết rằng vạn pháp đều sinh khởi phụ thuộc vào nhân quả, khi trở lại những giáo pháp cơ bản về nghiệp. Mọi việc đều xảy ra theo nhân quả và duyên khởi.

Sai Lầm Vì Quá Chú Trọng Vào Chi Tiết Của Pháp Quán Tưởng Và Nghi Lễ

Đề tài cuối cùng mà tôi muốn nói đến là việc nghĩ rằng phần quan trọng nhất của pháp tu Mật tông là thực hiện nghi thức và quán tưởng tất cả các chi tiết một cách chính xác. Điều này có thể là một sự sai lầm, đặc biệt là vào lúc đầu, ví dụ như mình thắc mắc về tất cả những món trang sức của vị Hộ Phật, và nó trông như thế nào, với tất cả những chi tiết nhỏ nhoi đó. Lúc đầu thì mình không thể quán tưởng tất cả những điều đó. Không thể nào có được tất cả các chi tiết ngay từ đầu. Kết quả của việc cố gắng có được tất cả các chi tiết một cách chính xác, và thất bại với việc này là mình hoàn toàn nản lòng. Điều đó không giúp ích gì cả. Mặt khác, nếu như chỉ thực hiện một nghi thức mà không có điều gì xảy ra trong tâm trí, thì cũng giống như một đứa trẻ chơi trò làm bác sĩ, hay chơi xây nhà. Nó chỉ chơi thôi, và điều đó cũng không có tác dụng gì.

Dù phải có một vài khái niệm tổng quát về những điều mình đang làm, và một số khái niệm tổng quát về các chi tiết, nhưng đừng bị ám ảnh vì những chi tiết đó. Chúng không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất là hiểu biết về những gì mình đang làm. Trong bộ Mật tông cao nhất thì mình muốn chuyển hóa quá trình của cái chết, trung ấm và tái sinh. Phải hiểu cách mà điều đó xảy ra, và thay vì có sự tái sinh bất tự chủ xảy ra, thì mình sẽ khởi hiện trong sắc tướng của một vị Phật, song song với điều này. Đó là phần thiết yếu của pháp tu.

Có hai yếu tố liên quan đến bất cứ pháp quán tưởng nào. Quán tưởng có nghĩa là tưởng tượng - và đừng nghĩ rằng đó chỉ là hình ảnh. Nếu như chỉ gọi nó là quán tưởng thì sẽ dễ lầm lẫn, bởi vì mình đang tưởng tượng bằng tất cả các giác quan. Trí tưởng tượng là một mãnh lực rất mạnh mẽ mà mình sở hữu, và sẽ khai thác nó trong Mật tông. Nhiều chỉ giáo về thiền nêu rõ có hai yếu tố cần thiết để thành công trong pháp quán tưởng. Yếu tố đầu tiên là sự rõ rệt. Rõ rệt có nghĩa là thật sự có một cái gì đó xuất hiện trong trí tưởng tượng của mình, dù nó không nhất thiết phải hiện ra một cách rõ nét. Yếu tố thứ hai là niềm tự hào thiêng liêng của vị Hộ Phật. Niềm tự hào thiêng liêng của vị Hộ Phật có nghĩa là với động lực bồ đề tâm và chánh kiến thì mình sẽ xem pháp quán tưởng này như nền tảng của sự định danh về “tôi”. Pháp quán tưởng tự thân như vị Bổn tôn tượng trưng cho sự giác ngộ mà mình chưa thành tựu, nhưng có thể đạt được trên cơ sở của các yếu tố Phật tánh, là một phần trong dòng tâm thức của mình. Cũng giống như “tôi” là một sự định danh về sắc tướng bình thường của mình, thì “tôi” cũng là một sự định danh hợp lệ cho dòng tâm thức của mình, tiếp nối cho đến khi mình sẽ trở thành một vị Phật. Trên cơ sở của sự định danh đó thì niềm tự hào của vị Hộ Phật là cảm giác mình là vị Bổn tôn này, nhưng với sự lãnh hội về tánh Không, và không nhận diện một cái “tôi” vững chắc trong hiện tướng này. Thật ra thì việc trở thành hiện tướng này chỉ có thể sinh khởi dựa vào nhân duyên.

Đối với niềm tự hào thiêng liêng của Hộ Phật, sự lãnh hội đúng đắn về tánh Không và lý duyên sinh, thì mình cảm thấy đây là “tôi”. Cảm giác này không phải là điều điên rồ, bởi vì ta hiểu rằng theo nghĩa đen thì việc mình là một vị Phật trong sắc tướng của vị Hộ Phật không xảy ra ngay bây giờ. Về tính rõ rệt của mọi chi tiết thì sách vở nói rằng niềm tự hào thiêng liêng của vị Hộ Phật là quan trọng nhất. Pháp quán tưởng có thể khá mơ hồ, nhưng điều quan trọng là phải cảm nhận rằng “Tôi là vị Hộ Phật này”, và đây là điều mà mình có thể đạt được. Khi định tâm gia tăng, thì nhiều chi tiết trong pháp quán tưởng sẽ hiện ra rõ ràng hơn. Hãy biết các chi tiết, nhưng đừng bị ám ảnh về việc quán tưởng đúng tất cả các món trang sức, ví dụ vậy, và nhớ tất cả những pháp khí được cầm trên tay. vì nó có thể làm cho bạn điên lên.

Lời Khuyên Về Phút Lâm Chung

Việc nghĩ đến cái chết của mình, về mặt mình phải thực hành những điều gì khi cái chết xảy ra là điều rất thú vị. Trong Mật tông thì ta đang tạo dựng ra những điều sẽ xảy ra, khi mình chết. Chúng ta muốn chết mà có khả năng duy trì trạng thái thanh quang, với sự hiểu biết đầy đủ về tánh Không, rồi khởi hiện trong sắc tướng của một Hộ Phật. Điều đó rất tuyệt vời, nhưng như Đức Dalai Lama nói là trừ khi mình có công phu siêu đẳng, để có thể thực hiện điều đó, còn không thì sẽ hoảng sợ trong khi hấp hối, nếu như cố gắng quán tưởng điều đó, nhưng không nhớ tất cả các chi tiết, và những thứ gì mà mình đang cầm trên tay này, hay tay kia. Khi bị căng thẳng như vậy thì ta sẽ làm hỏng cả một cơ hội để qua đời trong trạng thái bình tĩnh và minh mẫn, vì cứ lo lắng về chi tiết của những pháp khí mình đang cầm trên tay trong pháp quán tưởng. Đức Dalai Lama khuyên điều tốt hơn nhiều là nên tập trung vào bồ đề tâm, lòng từ bi trong lúc hấp hối. “Nguyện cho con tiếp tục có được kiếp người quý giá, để tiếp tục tu tập đến giác ngộ, và tạo lợi lạc cho chúng sinh.”. Ngoài ra, hãy nghĩ đến đạo sư của mình, và chết như thế, trừ khi mình có công phu siêu đẳng về pháp tu Mật tông. Nếu như mình có công phu siêu đẳng thì tốt thôi; nhưng hầu hết chúng ta đều không được như vậy.

Đây là lời khuyên rất hữu ích, và phù hợp với lời khuyên là đừng nghĩ rằng điều quan trọng nhất trong Mật tông là có được tất cả các chi tiết một cách chính xác.

Ba Điểm Tinh Yếu Của Đường Tu Giác Ngộ

Tâm Xả Ly

Để thành công trong pháp tu Mật tông thì Tông Khách Ba (Tsongkhapa) nhấn mạnh rằng mình phải có ba điểm tinh yếu của đường tu là tâm xả ly, bồ đề tâm và sự lãnh hội đúng đắn về tánh Không. Tại sao phải có tâm xả ly? Tâm xả ly có nghĩa là quyết tâm thoát khỏi điều gì. Theo nghĩa đen thì thuật ngữ Tây Tạng có nghĩa là mình nhất quyết làm điều gì đó. Chúng ta xác quyết về điều đó. Đâu là điều mà mình quyết tâm thoát khỏi? Chúng ta quyết tâm đoạn trừ và thoát khỏi luân hồi, cũng như tất cả những sự giới hạn của mình. Nói một cách cụ thể hơn thì tâm phóng chiếu đủ loại rác rến hay tính nhị nguyên vào vạn pháp, và ta tin rằng nó phù hợp với thực tại. Đó là điều mà mình phải từ bỏ trong Mật tông. Đó là việc tâm tạo tác ra hiện tướng bình thường, và tin rằng nó tương ứng với thực tại. Ta tin rằng mình và mọi người có sự tồn tại tự lập, sự tồn tại được thiết lập bằng tự thân nó, độc lập với bối cảnh của nó.

Ví dụ dễ nhất và rõ ràng nhất về sự tồn tại dường như tự lập là một trang mạng. Khi một trang mạng xuất hiện trên màn hình điện thoại của mình, thì có vẻ như nó đã hiện ra ở đó bằng tự lực của nó. Dường như nó phát sinh từ hư vô, và có vẻ tự nó hoàn chỉnh. Nó có mặt ở đó, tự lập một mình nó. Nó không xuất hiện như thể nó phụ thuộc vào hàng chục ngàn giờ làm việc của một trăm người, hay nhiều hơn nữa, để tạo ra nó. Nó không xuất hiện như thể cần phải có một số tiền lớn và rất nhiều thời gian để tạo ra nó. Nó không xuất hiện như vậy chút nào cả, đúng không? Tại sao nó không xuất hiện như vậy? Cách mà nó xuất hiện đối với mình thì do tâm tạo; và tâm của mình thì bị hạn chế. Tâm khiến cho nó xuất hiện như vậy, như thể nó tự lập.

Thực tại là do duyên khởi. Trang mạng đã hiện ra trên điện thoại của mình dựa vào tất cả nhân duyên của nó, cũng như các bộ phận bên trong điện thoại. Việc nó phụ thuộc vào bao nhiêu yếu tố là điều rất kinh ngạc. Đây cũng là một ví dụ về khai thị về nghiệp. Các pháp không sinh khởi từ chỉ một nguyên nhân, mà là từ sự kết hợp của nhiều nguyên nhân. Đức Phật đã dạy điều này một cách hay ho: một xô nước không tràn đầy vì giọt nước đầu tiên, hay giọt cuối cùng. Nó tràn đầy nhờ tất cả những giọt nước. Bất cứ điều gì xảy ra đều sinh khởi dựa vào vô số nhân duyên. Không có điều gì tự mình nó thiết lập bằng tự lực của nó.

Chúng ta muốn từ bỏ hiện tướng lừa đảo, giả dối của sự tồn tại tự lập, cũng như tâm thức tạo tác ra hiện tướng như thế. Đức Dalai Lama luôn rất quan tâm đến vật lý lượng tử, và có rất nhiều cuộc thảo luận với các nhà khoa học. Vật lý lượng tử có một sự tương đồng với lý thuyết về tánh Không, tuy cả hai không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ như mình có một trường lượng tử (quantum field), nghĩa là có tất cả những khả năng đồng thời này. Chỉ khi nào có sự tương tác với một người quan sát, thì từ trường này mới sụp đổ thành một hạt hay sóng, hay thành hạt ở đây hoặc ở đó.

Trong vật lý lượng tử thì trường lượng tử chỉ có thể sụp đổ một lần; nhưng ở đây thì giống như là mình có một trường lượng tử bằng duyên khởi. Đây là điều mà một vị Phật sẽ nhận thức, vì trường lượng tử này chứa đựng vạn pháp tương quan với vạn pháp: tất cả các nhân duyên trong quá khứ, hiện tại và tương lai, tất cả chúng sinh và vân vân. Một vị Phật nhận thức toàn bộ từ trường duyên khởi trong cùng một lúc. Đây là tâm toàn tri của một vị Phật. Tâm hạn hẹp của mình thu gọn nó thành một điều, dựa vào vọng tưởng và phần cứng (hardware) của mình. Nhưng điều mà tâm mình thu gọn nó thành một hiện tướng mà chỉ có mình mới nhận thức được, và nó hiện ra với mình như thể nó tự lập. Hơn nữa, điều mà mình nhìn thấy bằng phần cứng của mắt người, và điều mà một con ruồi nhìn thấy bằng mắt của côn trùng đa lăng kính thì rất khác nhau. Thực tại là gì? Cách mà mình làm cho từ trường này sụp đổ thì phụ thuộc vào lăng kính mà mình sử dụng để nhìn thấy nó. Đối với cơ cấu khái niệm của mình thì cũng giống như vậy. Tâm trí hạn hẹp của mình sẽ làm cho từ trường này sụp đổ thành một hiện tướng dường như tự lập, với rất nhiều vọng tưởng được phóng chiếu lên nó, chẳng hạn như “Tôi không tốt”, hay “Điều này thật kinh khủng”, rồi thì ta phàn nàn.

Ta sẽ từ bỏ tất cả những điều này, và thay vì vậy, muốn thu gọn từ trường vào trong một mạn đà la và chư Bổn tôn, yidam và toàn thể chư Hộ Phật. Đó là vì nó rất hữu ích cho người khác, để họ có thể tu tập với những điều này. Là một vị Phật thì mình muốn xuất hiện trong thân tướng Bổn tôn và mạn đà la, và cúng dường những điều này cho chúng sinh, để họ sử dụng trên đường tu, bởi vì tất cả những cánh tay và chân khác nhau này đại diện cho những khía cạnh khác nhau trên đường tu. Chúng giúp cho họ kết hợp tất cả các khía cạnh của đường tu trong cùng một lúc.

Một khi đã thu gọn trường lượng tử này thành một hiện tướng, nếu như mình xem hiện tướng ấy như tự lập, thì không đúng, cho dù ta có thu gọn nó thành hiện tướng thông thường của mình, hay thành hiện tướng của một Bổn tôn. Đó là lý do tại sao mà sự lãnh hội đúng đắn về tánh Không là điều cần thiết, để làm tan rã nhận thức về bất cứ hiện tướng nào như là thực tại tự lập và cụ thể. Tuy nhiên, ta vẫn muốn từ bỏ việc tạo tác ra hiện tướng bình thường của tâm, và sử dụng khả năng của nó để khiến cho hiện tướng làm sụp đổ trường lượng tử thành một tịnh độ, và những quán tưởng khác nhau mà mình sẽ thực hiện. Tâm xả ly cũng như sự lãnh hội đúng đắn về tánh Không là điều trọng yếu ở đây.

Bồ Đề Tâm

Những gì ta đang quán tưởng và tưởng tượng là những điều mình đang nhắm vào, bởi vì điều đó đại diện cho sự giác ngộ chưa xảy ra của mình. Với bồ đề tâm thì mình muốn đạt được giác ngộ chưa xảy ra này, và đang hướng đến, để tạo lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Chúng ta đang luyện tập điều này, bằng cách tu tập trong hiện tại. Việc làm như vậy sẽ tích tập tiềm năng mạnh mẽ hơn để đạt được nó một cách hiệu quả hơn, so với việc chỉ tu tập theo Kinh điển.

Hiểu Biết Đúng Đắn Về Tánh Không

Sự hiểu biết đúng đắn về tánh Không là sự giác ngộ chưa xảy ra với những vị Hộ Phật và mạn đà la này không tồn tại sẵn, chỉ ở bên trong bản thân mình, chờ đợi để bộc phát ra, khi mình đã tích tập đủ công đức và trí tuệ. Việc tưởng tượng rằng sự giác ngộ của mình tồn tại như vậy là một quan niệm sai lầm rất lớn. Phật tánh không chỉ nằm sẵn trong đầu mình, chờ đợi để bộc phát ra. Sự giác ngộ không có sẵn ở đó, nhưng ta đã không nhận ra là mình đã giác ngộ rồi. Đó không phải là hiểu biết đúng đắn về Phật tánh. Có một sự khác biệt giữa những gì đang xảy ra hiện nay, và những gì chưa xảy ra, nhưng có thể xảy ra. Không phải là giác ngộ là điều bất khả thi, hay không tồn tại.

Chẳng hạn như mình có thể nghĩ về ngày mai, đúng không? Ngày mai không xảy ra trong hôm nay, nhưng không thể nói rằng không có ngày mai, và nó không tồn tại. Có một sự khác biệt lớn giữa điều gì không tồn tại, và điều gì không xảy ra trong hiện tại. Sự giác ngộ trong tương lai của mình không xảy ra ngay bây giờ; nhưng nó không phải là điều gì hoàn toàn không tồn tại. Không phải là giác ngộ xuất phát từ hư vô, và không chỉ nằm ở đó trong đầu mình, chờ đợi để bộc phát ra. Nó sẽ không đến từ hư vô; nó không tồn tại theo cách nhị nguyên, cách biệt hoàn toàn với tâm thức, dòng tâm thức và tất cả tiềm năng của mình. Nó không phải là mình ở đây, và giác ngộ ở đó, và mình không thể nào đạt được nó.

Điều thiết yếu là phải hiểu lý duyên sinh. Vạn pháp sinh khởi phụ thuộc vào nhiều nhân duyên, và đó là cách duy nhất mà giác ngộ có thể xảy ra. Đó là cách duy nhất mà ta có thể có một hành trì Mật tông có ý nghĩa. Cần phải hiểu những gì đang xảy ra, và mình sẽ phải làm việc chăm chỉ và chuẩn bị cho nó. Pháp tu Mật tông không phải là điều mà mình khởi đầu việc tu tập trong đạo Phật. Nó không dành cho người mới tu tập. Đó là một loại pháp tu khá cao cấp.

Chuyển Hóa Đời Sống

Nếu như bạn đã tu tập Mật tông, và cảm thấy mình thật sự chưa sẵn sàng, hay đã tu tập quá sớm, thì phải nỗ lực nhiều hơn trong các giáo pháp cơ bản. Không nên nghĩ về giáo pháp Kinh điển cơ bản về bốn tư tưởng như trò trẻ con. Giáo pháp cơ bản là những điều thật sự thay đổi cuộc sống, và toàn bộ vấn đề là áp dụng chúng trong đời sống thực tế, không chỉ tập luyện chúng trên gối thiền. Hành trì thực tiễn là đời sống. Trong những tình huống khó khăn thì mình phải tu tập hạnh nhẫn, khoan dung và hiểu biết. Phải hiểu rằng khi người nào hành động một cách rất tệ hại, thì điều này đã phát sinh từ nhân duyên. Ta sẽ không chịu trách nhiệm cho mọi việc xảy ra trong vũ trụ, hay có thể kiểm soát tất cả mọi việc. Điều đó hoàn toàn là một huyền thoại, đúng không? Ta không thể kiểm soát tất cả mọi việc, nhưng có thể đóng góp một phần vào việc đó. Tuy nhiên, vạn pháp đều sinh khởi dựa vào nhiều nhân duyên.

Câu Hỏi

Đây là điều mà tôi muốn trình bày về Mật tông và ngondro, làm sáng tỏ về những sự hiểu lầm cơ bản, và lời khuyên về cách làm cho pháp tu của mình có ý nghĩa và hiệu quả. Nếu có những đề tài khác mà bạn muốn nghe tôi nói thêm, có thể là những lãnh vực hiểu lầm khác, liên quan đến đạo sư, hay bất cứ điều gì, thì xin cứ đặt câu hỏi.

Ngôn Ngữ Trong Pháp Tu, Và Việc Đưa Ý Nghĩa Vào Trong Hành Trì

Tôi có một câu hỏi về ngôn ngữ. Trong Phật giáo Tây Tạng thì điều quan trọng là phải tu tập bằng tiếng Tây Tạng, hay có thể bằng ngôn ngữ bản địa của mình? Một số người nhấn mạnh điều quan trọng là sử dụng ngôn ngữ của mình, để nó có ý nghĩa, và xuất phát từ đáy lòng, còn người khác thì cho rằng ngôn ngữ Tây Tạng hay ngôn ngữ chánh gốc có một số phẩm chất tâm linh, và không nên đánh giá thấp điều đó. Có thể cho chúng tôi biết suy nghĩ của ông về điều này hay không? 

Về mặt ngôn ngữ trong việc tu tập thì trước hết, người Tây Tạng không tu hành bằng tiếng Phạn. Họ làm điều đó bằng tiếng Tây Tạng; nên người Tây Tạng đã dịch tất cả kinh sách qua ngôn ngữ của họ. Họ chỉ giữ một số mật chú bằng tiếng Phạn, nhưng bên cạnh các mật chú và một vài cái tên của các loài hoa, và những điều tương tự như vậy, thì tất cả mọi thứ đều được dịch ra tiếng Tây Tạng. Một vị Lạt ma vĩ đại đã nhấn mạnh việc thực hành tất cả các pháp tu bằng tiếng Tây Tạng là Kalu Rinpoche đời trước. Ngài đòi hỏi mọi người tu tập bằng tiếng Tây Tạng, vì ngài có nhiều trung tâm Phật giáo ở các quốc gia khác nhau, và cảm thấy nếu như mọi người đều tu tập cùng một ngôn ngữ, đó là tiếng Tây Tạng, thì mọi người từ tất cả các quốc gia khác nhau đều có thể tu tập chung với nhau. Không phải ngôn ngữ Tây Tạng là điều kỳ diệu. Việc trì tụng bằng tiếng Tây Tạng đã được nhấn mạnh ở một mức độ rất thực tiễn, để xây dựng một cộng đồng tu tập.

Tuy nhiên, Đức Dalai Lama nói rằng điều tốt nhất là hiểu những điều mình đang làm. Chúng ta có thể hiểu nó tốt nhất bằng ngôn ngữ của mình; nhưng ngôn ngữ cũng nên thi vị và theo nhịp điệu, điều này không dễ dàng trong nhiều ngôn ngữ. Nó phải trôi chảy một cách dễ dàng, khi mình tụng điều gì như một pháp tụng niệm. Nếu như đọc một quyển sách, thì ngôn ngữ phải đủ rõ ràng để hiểu ý nghĩa.

Khi thuyết Pháp ở Đức gần đây thì Dzongsar Khyenste Rinpoche đã nói về điều này một cách rất hay ho. Ngài nói rằng nếu người Tây Tạng phải hành trì tất cả các pháp tu bằng tiếng Đức, được viết theo phiên âm của chữ Tây Tạng, thì ngài nghĩ rằng không có bao nhiêu người Tây Tạng sẽ muốn hành trì pháp tu nào. Điều rất hữu ích là nhìn nó từ quan điểm khác, về cách sự việc sẽ kỳ lạ như thế nào, khi ta cứ khăng khăng đòi tụng niệm các pháp tu bằng một ngôn ngữ mà mình không hiểu. Có những ưu điểm và nhược điểm trong mỗi một quan điểm, về việc liệu tất cả chúng ta có nên thực hiện điều đó bằng ngôn ngữ Tây Tạng chánh gốc, hay bằng ngôn ngữ riêng của mình.

Kinh nghiệm cá nhân của tôi, khi tôi nghiên cứu và hiểu tiếng Tây Tạng là trong những năm đầu tu tập, tôi đã hành trì bằng tiếng Tây Tạng. Nhưng sau đó, vì thời giờ rất eo hẹp, và tôi đã tu tập rất nhanh trong đầu, nên việc tu tập biến thành một hành động gần như chỉ lật trang sách, thay vì thật sự làm bất cứ điều gì, hay bổ sung thêm bất cứ ý nghĩa nào vào bài pháp mà tôi đang đọc nhanh bằng tiếng Tây Tạng. Do đó, sau một thời gian thì tôi chuyển sang tiếng Anh, vì điều đó có ý nghĩa hơn đối với tôi. Tuy nhiên, dù đang tu tập bằng ngôn ngữ nào, thì nó có thể dễ trở thành một bài tập lật trang và đọc thật nhanh.

Nếu như vấn đề chính của mình là tâm tán loạn - và đó là thử thách lớn nhất - nhưng nếu như đó không phải là thử thách lớn nhất đối với mình, thì vấn đề tiếp theo là đưa bất cứ ý nghĩa nào vào trong những điều mình đang nói hay đọc. Điều đó rất khó làm, và khó để thực hiện nó một cách nhanh chóng. Serkong Rinpoche thường nói rằng mình nên có khả năng ôn lại toàn bộ trình tự đường tu giác ngộ trong thời gian mình để một chân vào bàn đạp trên yên ngựa, và gát chân kia qua lưng ngựa. Ngài nói rằng cái chết sẽ không đợi cho mình ngồi đúng tư thế, và ôn lại những điều tốt đẹp một cách chậm rãi. Khi cái chết đến thì mình phải có khả năng nghĩ đến mọi việc ngay lập tức.

Đây là những điều mình đang nhắm vào, để có thể thực hiện, không chỉ vào phút lâm chung, mà cả trong cuộc sống. Nếu có một hoàn cảnh nào xảy ra, và người nào bắt đầu la hét với mình, hay đại loại như vậy, thì ta không thể nói, “Chờ một chút”, trong khi mình ngồi xuống trong tư thế thích hợp, đếm hơi thở để bình tĩnh lại, rồi xem xét toàn bộ lý luận về việc người này đã từng là mẹ của mình trong một kiếp trước, và tất cả những điều đó, rồi cuối cùng thì đứng dậy với lòng kiên nhẫn, và chúc phúc cho họ. Chúng ta không có thời giờ cho việc đó. Hạnh nhẫn của mình phải hoạt động ngay lập tức.

Nên đưa ý nghĩa vào những điều mình đang thực hành. Nếu như đang tu tập Mật tông, thì rất nhiều pháp tu có những những bài tụng này. Việc tụng niệm thì giống như kịch bản của một vở kịch opera. Chúng ta sẽ tụng tứ vô lượng tâm và quy y. Tất cả các ngondro đều có mặt ở đó, trong phần đầu của bất cứ nghi quỹ (sadhana) nào. Trong các nghi quỹ dài hơn thì tất cả mọi pháp tu đều nằm trong đó. Luôn luôn có pháp tu Kim Cang Tát Đỏa, guru yoga và cúng dường mạn đà la. Pháp tu thật sự là có khả năng phát khởi tâm thái về mỗi một điều này, và không tụng nhanh để lướt qua những phần đó, và chỉ lật qua trang khác. Bất kể mình đang tụng niệm pháp tu bằng tiếng Tây Tạng hay bằng ngôn ngữ của mình, thì ta hoàn toàn có thể làm điều đó mà không có ý nghĩa gì cả, trong cả hai trường hợp. Chỉ vì nó không phải là ngôn ngữ của mình, thì không có gì đảm bảo là mình sẽ bổ sung thêm ý nghĩa nào vào đó. Đó là việc tu tập thật sự, và khó để cảm nhận được điều gì đó, để thật sự cảm nhận lòng từ, rồi chỉ cần đi đến bước tiếp theo của pháp tu. Liệu mình có thật sự cảm thấy lòng từ hay không?

Trách Nhiệm Chung Và Nghiệp

Câu hỏi của tôi là về cộng nghiệp, hay nghiệp của một nhóm, vì những sự kiện xảy ra trên toàn cầu và địa phương. Cộng nghiệp trong đạo Phật vận hành như thế nào? Không phải là chúng ta cũng tương quan với nhau bằng cách nào hay sao, đối với những điều đang xảy ra ở Miến Điện, vì chúng ta là Phật tử, chẳng hạn vậy? Thậm chí tôi chưa bao giờ nghĩ rằng người nào sẽ cho rằng tôi cũng giống như các Phật tử cuồng tín ở Miến Điện, khủng bố những người thiểu số, cho đến khi có người đối chất với tôi về điều này gần đây.

Câu hỏi là về cộng nghiệp và trách nhiệm của chúng ta về điều đó. Trước hết thì có huyền thoại rằng tất cả các Phật tử đều là người tốt. Không thể nói rằng trong bất cứ nhóm người nào thì mọi người đều như thế này, hay như thế kia. Tất cả chúng ta đều là những cá nhân. Chúng ta có thể có được phân tích dữ liệu nào đó về tỷ lệ số người là người tốt, và khi họ cư xử tốt, nhưng điều này không quá hữu ích.

Về mặt trách nhiệm cá nhân, nếu như xem các tài liệu văn học về A Tỳ Đạt Ma (abhidharma) trong danh sách các tâm sở luôn hiện diện trong tất cả các thiện hạnh, như nền tảng trong đạo đức nhà Phật, thì chúng gồm có ý thức về lòng tự trọng, và quan tâm đến cách hành vi của mình sẽ phản ánh như thế nào về nhóm người lớn hơn, dù đó là cha mẹ mình, hay là đạo Phật. Mỗi một hành vi của mình sẽ phản ánh về người khác, cũng như hành vi của họ sẽ phản ánh về chúng ta, như các Phật tử. Theo ý nghĩa này thì mình không chịu trách nhiệm cho hành vi của họ; nhưng hành vi của họ sẽ phản ánh về đạo Phật, và chúng ta đang theo đạo Phật, nên điều này chắc chắn là rất có hại.

Tuy nhiên, chỉ vì người nào nói rằng họ là Phật tử hay con chiên Cơ đốc, thì không có nghĩa là họ tuân theo lời dạy của Chúa Giê-su hay Đức Phật. Đó cũng là một chuyện hoang đường, rằng tất cả các nhà sư đã giác ngộ, và toàn thể dân Tây Tạng là Phật. Ai cũng là người, và mọi người đều có những vấn đề riêng trong luân hồi để giải quyết.

Về mặt cộng nghiệp thì chúng ta có phải chịu trách nhiệm về cách họ hành động ở Miến Điện không? Không, chúng ta không chịu trách nhiệm về điều đó. Có phải người ta sẽ nói rằng vì điều này sẽ phản ánh về đạo Phật, nên nó phản ánh về “tôi”? Đúng, nhưng chúng ta không thể bào chữa cho hành vi của họ, dù mình có thể giải thích rằng tôn giáo không phải là yếu tố duy nhất. Việc này cũng có những sắc tộc khác nhau liên quan trong đó, và có một lịch sử xung đột giữa người Bengali và Miến Điện. Có rất nhiều yếu tố lịch sử, và nó không đơn giản như vậy. Nhưng chúng ta không biện hộ cho những điều đang xảy ra, và không nói rằng đó là điều tốt đẹp, hay bỏ qua cho họ. Nhưng mình phải giải thích cho người khác, để họ không nghĩ rằng hành vi này tuân theo giáo pháp của Đức Phật.

Phải giải thích rằng đây chỉ là những người bình thường, mê muội, tạo ra hành động khủng bố. Như Đức Dalai Lama nói về Hồi giáo, chỉ vì có một số người “hư hỏng”, như Ngài nói, thì có những người “hư hỏng” trong tất cả các nhóm tôn giáo. Nếu như nói rằng tất cả mọi người đều là dân khủng bố, chỉ vì có một nhóm nhỏ khủng bố, mà nhóm này lại không đại diện cho giáo lý trong tôn giáo của họ, thì đó là sự sai lầm. Điều này giúp cho mình không phóng chiếu điều đó lên những người thuộc các tôn giáo khác, khi họ có những hành vi sai trái trong cộng đồng của họ. Chúng ta chỉ có thể giải thích cho người khác rằng đúng, điều này tệ hại, và chúng ta đồng ý với họ, và Phật tử cũng lên án điều đó. Chúng ta có thể nói rằng đó là một tình huống rất phức tạp, và không chỉ là vấn đề thiện chống lại ác. Mình còn có thể làm điều gì khác hay không?

Tôi nghĩ rằng câu hỏi của bạn liên quan nhiều đến trách nhiệm chung hơn là nghiệp. Cộng nghiệp là một đề tài khác. Tại sao nhóm người cụ thể này lại bị thương trong một vụ thiên tai? Đó là vấn đề khác.

Nêu Gương Và Dạy Trẻ Em Về Giá Trị Phổ Cập

Là Phật tử thì không phải là đã đến lúc mình nên nói nhiều hơn về niềm tin của nhà Phật về lòng từ bi và hòa bình hay sao, bởi vì thế giới cần phải biết điều này?

Xét về những vấn đề chung này thì mình có cần suy nghĩ ở mức độ toàn cầu và phổ quát hơn không? Tôi không nghĩ đây là một vấn đề về cộng nghiệp, vì nó là một vấn đề về duyên khởi. Chúng ta không chỉ tự mình tồn tại như những cá nhân. Những điều xảy ra trên thế giới đều phát sinh dựa vào những điều mà mỗi một người thực hiện, và sự tương tác giữa mọi người. Chúng ta có thể đóng góp vào điều đó, nhưng phải nhận thức là có rất nhiều yếu tố khác liên quan trong đó.

Nếu như có những người được gọi là Phật tử, nhưng lại hành động một cách rất không theo tôn chỉ của đạo Phật, như ở Miến Điện, thì mình có thể cố gắng nêu gương về những điều đúng đắn trong đạo Phật. Nhưng ta chỉ là một cá nhân, và khi nói về một quan điểm chung rộng lớn hơn, thì nó thật sự là một sự định danh, nói theo thuật ngữ kỹ thuật, về nhiều cá nhân. Chúng ta có thể xem xét và thấy được xu hướng, gần như một sự phân tích dữ liệu, về số người tốt là x, số người không tốt là y, và như một sự định danh thì mình có thể nói có một nhóm người tốt và một nhóm người không tốt. Có những xu hướng này, và số liệu thống kê có một giá trị nào đó. Nhưng số liệu thống kê được tạo ra bằng cách mỗi một cá nhân hành động theo một cách nào đó.

Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là đưa ra một ví dụ về ý nghĩa của việc thật sự áp dụng giáo pháp trong thực tế. Đức Phật đã dạy theo hai cách, có những giáo pháp Kinh điển, dựa trên những lời Ngài đã nói và dạy, rồi có những giáo pháp được nêu ra bằng tấm gương của Ngài, dựa vào cách Ngài chứng ngộ. Chúng ta cũng có thể dạy theo cả hai cách, cả bằng lời nói và bằng tấm gương mà mình nêu ra. Điều này chỉ có thể được thực hiện một cách riêng rẽ. Chúng ta có thể truyền cảm hứng cho người khác, và có thể thấy một xu hướng rộng lớn hơn như một sự định danh về điều đó, nếu như có nhiều hơn một người đang truyền cảm hứng cho những người khác, bằng tấm gương của họ. Theo ý nghĩa đó thì mình sẽ cố gắng tạo ảnh hưởng, và làm cho mọi việc tốt đẹp hơn.

Chúng ta phải thực tế. Đức Dalai Lama rất uyên bác trong cách tiếp cận của Ngài. Rất khó thay đổi tập khí và lề thói của người lớn vào thời điểm này trong cuộc sống của họ, cách họ đối phó với những vấn đề trên thế giới, chỉ với sự gây hấn, bạo lực và lợi ích cá nhân. Điều mà chúng ta phải làm là thay đổi hệ thống giáo dục, để thay vì chỉ giảng dạy về giá trị vật chất, thì cũng bổ sung thêm cái mà Ngài gọi là “đạo đức thế tục”, hay “giá trị cơ bản của con người”. Đây là cái gọi là “đạo đức thế tục” cơ bản, được tất cả các tôn giáo, thậm chí những người không chấp nhận bất cứ tôn giáo nào cũng chấp nhận. Điều này bao gồm lòng nhân từ cơ bản, nhẫn nại, tha thứ, có lòng thương yêu và quan tâm đến người khác - những điều cơ bản như vậy.

Chúng ta có thể bắt đầu giảng dạy những giá trị này cho trẻ nhỏ. Có những chương trình đang được phát triển, chẳng hạn như có một trường đại học ở Mỹ và ở Ấn Độ đã cho một chương trình giảng dạy đưa nó vào hệ thống giáo dục. Điều này được thực hiện với những bài tập rất đơn giản. Tôi đã thấy tài liệu mà họ đang làm việc, và nó rất hay. Ví dụ như, họ có bài tập cho các em lớp mẫu giáo đứng thành vòng tròn, và giáo viên đứng ở giữa. Giáo viên sẽ nói, “Em nào thích được người khác đối xử tốt với mình thì hãy đứng ở giữa vòng tròn. Tất cả những đứa trẻ đều đi vào giữa vòng tròn, rồi đi ra trở lại. Sau đó, giáo viên sẽ nói, “Em nào thích được người khác xử tệ với mình thì hãy đứng giữa vòng tròn.”, thì không có ai bước vô giữa vòng tròn hết.

Nhờ vậy mà trẻ con được dạy về giá trị của lòng tốt và, nói một cách đơn giản thì việc làm người tử tế thì tốt hơn nhiều, so với việc xử tệ với ai. Có một sự khác biệt. Như vậy thì ta có thể dần dần giới thiệu những khái niệm này trong bối cảnh phi tôn giáo, trong hệ thống giáo dục. Các dự án thí điểm cho đến nay đã rất thành công. Nếu như nói về việc thay đổi vấn đề một cách chung chung, thì phải khởi đầu ở mức độ mà nó thật sự có hiệu quả. Cần phải kiên nhẫn, vì điều này sẽ cần có thời gian. Điều này thật sự nhắm vào thế hệ tương lai, đó là những đứa bé này.

Với những chương trình như vậy thì có thể có hy vọng cho tương lai; đó là nếu như mình có thể giúp cho giới trẻ đưa mắt ra khỏi điện thoại của họ, và thật sự giao tiếp với người khác. Đó là một thử thách lớn. Khi người ta đeo kiếng thực tại ảo, thì sẽ thấy việc quan hệ trong thế giới thật rất là khó khăn. Tôi tin chắc rằng trách nhiệm của chúng ta, như những người tin tưởng vào Phật pháp, là cố khám phá ra cách mà mình có thể giúp đỡ mọi người trong tương lai. Chúng ta có thể thấy những vấn đề sẽ xảy ra với thế hệ trẻ hơn. Cần phải suy nghĩ trước về cách mình có thể giúp những thế hệ tương lai tránh những nguy cơ, khi hầu hết mọi người sẽ được thay thế bằng người máy và trí thông minh nhân tạo. Làm sao họ sẽ đối phó với đời sống, và làm cho nó có ý nghĩa?

Hiện nay, chúng ta phải nghĩ đến điều này. Hiện giờ thì trách nhiệm chung của chúng ta là những thế hệ tương lai và trẻ nhỏ, những đứa bé mà đã biết chơi với màn hình của máy tính bảng (tablet) khi mới một tuổi rưỡi. Chúng sẽ ra sao, khi lớn lên? Đây là thử thách thật sự, nếu như mình sẽ trở thành những Phật tử có trách nhiệm để giúp đỡ người khác.

Lời Khuyên Cuối Cùng Về Việc Tạo Ra Những Đường Dây Thần Kinh Mới Có Ích

Nếu như tóm tắt những gì chúng ta đã thảo luận, khi nói về thiền thì nó có nghĩa là tạo dựng một tập khí tích cực, một đường dây thần kinh tốt hơn. Đó là điều mà chúng ta đang làm. Tất nhiên là để bắt đầu thì phải tĩnh tâm; nhưng việc tĩnh tâm chắc chắn chỉ là một sự khởi đầu. Đó là việc chuẩn bị, và công việc thật sự là tạo ra một số tâm trạng tích cực.

Ví dụ như, nếu mình sẽ tu tập những pháp tu Mật tông rất hiệu quả và tuyệt vời này, thì phải chuẩn bị một cách đúng đắn. Phải nghĩ về việc vạn pháp sẽ sinh khởi dựa vào nhân duyên. Nếu muốn đạt được một kết quả, thì mình phải tạo dựng nhân duyên. Rồi thì mọi việc sẽ đi theo nhân quả. Tất cả những phần mà mình muốn kết hợp trong pháp tu Mật tông thì trước hết, cần phải được tu tập chúng riêng rẽ, rồi mới cố gắng kết hợp tất cả các pháp tu với nhau.

Ngay cả khi chỉ nghĩ về lòng bi và trí tuệ, thì mình cần cả hai yếu tố. Nhưng trước tiên thì phải tu tập lòng bi, và sau đó là trí tuệ, hoặc theo thứ tự khác. Rồi thì học cách kết hợp chúng. Điều phải lắng đọng trong tâm mình là việc tu tập Pháp là một công việc nghiêm túc. Như một trong những vị thầy của tôi đã nói, “Nếu con hành trì những phương pháp ảo, thì sẽ có kết quả ảo. Nếu con thực hành các phương pháp thực tế, thì sẽ có được kết quả thực tế.”. Phải tiếp cận việc tu hành của mình một cách thực tế. Nếu như muốn đạt được một mục tiêu, thì mình phải làm điều này, điều này, điều này và điều này theo thứ tự, với ý nghĩa và tâm huyết của mình trong đó. Càng quen thuộc với việc tu tập như vậy, thì nó sẽ càng lắng đọng nhiều hơn vào trong nội tâm của mình.

Người ta thường hỏi về sự khác biệt giữa sự hiểu biết bằng trí thức và hiểu biết bằng tình cảm, hay “trực giác”. Điều này có liên quan đến việc mình được thuyết phục như thế nào về điều gì. Với sự hiểu biết bằng trí thức thì mình biết điều gì đó, và thậm chí có thể tin rằng nó là sự thật và hữu ích. Nhưng nó không chỉ là việc được thuyết phục, mà mình phải quen thuộc với điều gì đó, để thật sự cảm nhận nó. Ví dụ như đó là cách mà mình có được cảm giác về lòng từ hay lòng bi. Chúng ta đã quá quen thuộc với nó. Mình không chỉ nghĩ rằng “Tôi nên thương yêu tất cả mọi người, vì họ rất tử tế với tôi.”. Chúng ta có thể biết điều đó, nhưng vẫn cảm thấy bực mình. Thậm chí, mình có thể tin rằng việc phát tâm bi là điều có tính xây dựng. Chúng ta có thể đồng ý rằng cả thế giới đều phụ thuộc vào việc làm của người khác, và họ rất nhân từ. Họ sẽ làm việc đó, để mình không phải làm điều đó. Nhưng nếu như cứ thiền quán và thật sự trưởng dưỡng điều này nhiều lần, thì nó sẽ tạo ra đường dây thần kinh tích cực, và mình sẽ cảm nhận điều đó.

Đó là điều mà mình phải làm với tính khả biến thần kinh (neural plasticity). Cần phải thay đổi cách mà tâm mình đã được uốn nắn. Cách duy nhất mà mình có thể làm điều này là nhờ nhân quả. Điều trước tiên là để hiểu và tin rằng giáo pháp là điều chính xác. Sau đó thì mình sẽ tự tin, và có thể bắt đầu lãnh hội chúng.

Vì nó bắt nguồn từ một trong những chỉ giáo của ngài Vô Trước (Asanga), tôi cũng nên nói rằng có thể mình phải nhắc nhở tự thân bằng lời nói, để tạo ra những tập khí ích lợi này. Khi đang cố tập trung vào điều gì đó, thì có một ý niệm sai lầm là mình phải làm cho tâm thức hoàn toàn tĩnh lặng, và có được định tâm hoàn hảo. Có một sự nhấn mạnh quá độ vào định tâm hoàn toàn vô niệm. Sách vở nói rằng việc tự nhắc nhở mình bằng những từ ngữ về tâm trạng mà mình đang cố gắng tạo ra thì không phải là sự sao lãng. Sự sao lãng, hay tâm tán loạn, là nghĩ về điều gì hoàn toàn khác biệt. Để duy trì sự chú ý thì đôi khi, ta phải tự nhắc nhở mình về một chữ quan trọng như là “lòng bi”, hay “lòng từ”, để giúp cho mình tập trung tinh thần. Nếu không thì ta có thể ngồi đó và lâng lâng, nhưng đó không phải là mục tiêu của mình. Khi bắt đầu lâng lâng và không có gì xảy ra cả, thì phải tự nhắc nhở bản thân. Nó không phải là một chuỗi ngôn từ dài dòng, mà chỉ là một chữ chính.

Hãy dành một vài khoảnh khắc để cho điều này lắng xuống.

Xem Pháp Tu Như Bài Tập Luyện Tinh Thần

Tôi nghĩ rằng việc xem pháp tu Mật tông, đặc biệt là bài tụng niệm nghi quỹ (sadhana), như một bài tập luyện tinh thần là điều rất hữu ích. Nhiều người trong chúng ta tập luyện thân thể, và sẽ thực hiện những bài tập khác nhau, lặp đi lặp lại nhiều lần, để cơ thể được mạnh khỏe hơn. Pháp tu Mật tông là bài tập tinh thần, và nó thật sự là một bài tập, nếu như mình hành trì nghi quỹ một cách chính xác. Chúng ta có nguồn cảm hứng từ chư bổn sư, tứ vô lượng tâm, quy y, bồ đề tâm, Kim Cang Tát Đỏa, guru yoga, và từ pháp tu này đến pháp tu khác. Đó là bài tập luyện. Có thể mình chỉ cần tụng blah, blah, blah và lật qua trang khác, hay có thể sử dụng nó như một bài tập tinh thần, để cố lần lượt tạo ra những tâm trạng này. Tuy nhiên, cần phải chuẩn bị, và điều này có nghĩa là mình đã tu tập mỗi một pháp tu trước đó rồi, nên sẽ không cần quá nhiều thời gian để tạo ra mỗi phần. Mình phải làm quen với nó trước; rồi sẽ đi qua tất cả những điều này như một bài tập luyện. Nếu như mình có thể làm điều đó thì rất tuyệt vời. Giống như một bài tập thể dục có thể làm cho mình mạnh mẽ hơn, thì ở mức độ tinh thần và cảm xúc, những tuệ giác và chứng ngộ này sẽ giúp cho mình mạnh mẽ hơn.

Nếu như nhìn vào pháp tu của mình như vậy, thì khi cam kết thực hiện một bài tụng niệm và quán tưởng nào đó mỗi ngày cho đến suốt đời, mình sẽ không nghĩ rằng đó là điều nhàm chán. Đó là điều rất khó khăn, khi nhìn nó theo cách đó. Chỉ giáo thực hành nghi quỹ là cách hướng dẫn tu tập, và sẽ mất hơn một kiếp để tinh thông nó. Nhưng rồi mình sẽ đánh giá cao tính vĩ đại của những pháp tu này, và rất tôn trọng phương pháp Mật tông. 

Hồi Hướng

Nguyện cho bất kỳ sự hiểu biết và công đức nào mà con tích tập được từ điều này, có thể ngày càng trở nên sâu sắc hơn, và trở thành nhân để tất cả chúng sinh đạt được Phật quả, vì lợi lạc của tất cả chúng ta. 

Top